Tip:
Highlight text to annotate it
X
DỰA TRÊN MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT.
[ lilting melody played
on acoustic guitar ]
[ violins join in ]
[ French horns playing ]
[ trumpets join in ]
[ solo guitar resolves melody ]
[ xylophone plays halting
jazzy theme ]
[ strings join melody ]
[ jazzy saxophone plays ]
[ orchestra repeats melody ]
[ melody ascending ]
[ saxophone, bass play mid-
tempo, improvisational jazz ]
[ orchestra repeats melody ]
[ melody builds ]
[ melody slows ]
[ melody repeats ]
[ airy, descending progression ]
[ melody repeats ]
[ theme music ends ]
[ static crackles ]
[ applause ]
JOE GARAGIOLA:
Chào mừng quý vị đến với
chương trình Hãy Nói Thật.
Khách mời đầu tiên của
chúng ta hôm nay
là một tay lừa đảo siêu hạng
mà chúng ta chưa từng được
biết tới
và các bạn sẽ hiểu
ý tôi ngay thôi.
NNOUNCER:
Số Một.
Tên anh là gì?
Tên tôi là
Frank William Abagnale.
Số Hai?
Tên tôi là
Frank William Abagnale.
Số Ba?
Tên tôi là
Frank William Abagnale.
GARAGIOLA:
Từ năm 1964 đến 1967
tôi đã giả danh một phi công
cho hãng hàng không Pan Am
và đã được bay hơn
2 triệu dặm miễn phí.
Trong thời gian đó, tôi cũng
là giám đốc bệnh viện Georgia
và là trợ lý chánh án cho
tòa án tối cao *** Lusiana.
Khi bị bắt, tôi đã được công nhận là
siêu lừa đảo trẻ nhất lịch sử nước Mỹ.
Tôi đã ký hơn 4 triệu đôla
ngân phiếu giả
ở tổng cộng 50 *** nước Mỹ
và 26 nước trên thế giới.
Và tôi làm tất cả chuyện đó
trước sinh nhật thứ 19 của mình.
Tên tôi là
Frank William Abagnale.
You don't know how
to tell the truth...
[ applause ]
You don't know how
to tell the truth...
Vậy là lần đầu tiên trong đời,
anh ta sẽ phải nói thật.
Kitty sẽ là người bắt đầu
những câu hỏi.
Cảm ơn. Số Một, tại sao với
những tài năng như vậy...
và một khuôn mặt cũng rất sáng sủa...
tại sao anh không chọn một
công việc hợp pháp?
Vấn đề chính chỉ là tiền.
Khi còn trẻ, tôi cần tiền
và những nghề vừa nêu trên là
cách dễ nhất để kiếm nhiều tiền.
Tôi hiểu.
Số Hai. Tôi thấy tất cả
chuyện này thật thú vị.
Vậy cuối cùng ai là người
đã tóm được anh?
Tên ông ta là Carl Hanratty.
Han-an-an-ratty.
Ratty.
Hanratty.
Han-ratty.
Carl Hanratty.
Vâng.
Tôi... là... Carl Hanratty
Tôi đại diện cho FBI của
chính phủ Hoa Kỳ.
[ speaking French ]
Đúng. Tôi có giấy phép từ cấp
trên để vào gặp tù nhân Abagnale.
[ man translating
English into French ]
[ men speaking French ]
[ keys jangling ]
[ lock turns ]
[ door clanks ]
[ speaks French ]
[ thunder rumbling outside ]
Anh ngồi đây.
Đừng mở cửa ra.
Đừng đưa cho anh ta...
bất cứ cái gì qua cái lỗ này.
[ wind quietly blowing
through building ]
[ speaking French ]
[ men conversing
indistinctly ]
[ hoarse coughing ]
Ôi... Chúa ơi.
[ violent coughing ]
[ thunder rumbling ]
[ water dripping ]
[ rain patters on umbrella ]
[ violent coughing continues ]
[ retching ]
Cậu biết không, tôi cũng
đang bị cảm nhẹ.
Frank...
Tôi đến để đọc những điều khoản
về dẫn độ tù nhân
của Tổ Chức Bảo Vệ
Nhân Quyền Châu Âu.
"Điều khoản 1: việc dẫn độ
sẽ được công nhận và đảm bảo
Cứu tôi.
...với thời gian tối đa là
một năm
tùy theo tội trạng."
Cứu tôi.
Thôi đi, Frank.
Cứu tôi.
Cậu nghĩ có thể lừa được tôi à?
[ raspy coughing ]
Vẫn còn 16 trang nữa,
kiên nhẫn nào.
Điều khoản 2:
"Nếu như người yêu cầu được
dẫn độ có những tội trạng
mà *** được yêu cầu có luật pháp...
[ thuds ]
khác với ban đầu..."
Frank?
Frank?
Chết tiệt!
Gọi tôi một bác sĩ vào đây!
- Tôi cần một bác sĩ!
- Vâng.
Bác sĩ! Ngay bây giờ!
Đừng chết chứ, Frank.
Bác sĩ đến ngay cho cậu đây.
[ man speaks French ]
[ speaks French ]
Frank, nếu còn nghe được tôi nói
thì đừng lo gì cả.
Sáng mai tôi sẽ đưa cậu về nhà.
Sáng mai là về nhà, Frank.
[ men conversing in French ]
Ông đang làm gì thế?
Rửa trôi hết chấy rận đi.
Cậu thanh niên này
phải được đưa về nước Mỹ.
Cậu ta cần gặp bác sĩ.
Ngày mai bác sĩ sẽ đến.
Tôi đã tốn quá nhiều công sức
theo đuổi vụ này
và tôi sẽ không để ông làm
hỏng hết mọi chuyện đâu.
Cậu ta mà chết là ông
sẽ phải chịu trách nhiệm.
[ door creaking ]
[ rain pattering on roof ]
Monsieur!
[ men shouting in French ]
Ôi, Frank.
[ alarm sounding,
cups clanking ]
[ prisoners cheering
and whistling ]
[ coughing ]
[ cheering continues ]
[ coughing ]
[ cheering continues ]
[ men shouting in French ]
[ prisoners continue cheering ]
Được rồi nào, Carl...
về nhà thôi.
Tổ chức bảo vệ hòa bình
cộng đồng Rochelle
được thành lập từ năm 1919.
Trong từng đấy năm
chúng ta mới
chỉ có không nhiều thành viên
được trao tặng thành tựu trọn đời.
It's an honor that, uh
Đã có 57 cái tên được khắc
lên bức tường danh dự,
và tối nay con số sẽ thành 58.
Xin quý vị hãy đứng dậy
để chào mừng một người...
đã có công giúp đỡ và duy trì
[ scattered chuckling ]
cho tổ chức hoạt động...
Frank William Abagnale.
[ crowd whistling ]
[ mike feedback whines ]
Tôi đứng trên này mới thấy
mình thật nhỏ bé...
trước sự hiện diện của
thị trưởng Robert Wagner...
[ applause ]
...và vị chủ tịch tổ chức
của chúng ta, Jack Barnes.
[ applause ]
[ whistling ]
Và trên hết, tôi rất vinh dự được
đến cùng vợ tôi, Paula...
...và con trai Frank Jr...
Frank... Đứng dậy nào, con trai...
...đang ngồi ở hàng ghế đầu.
[ laughter ]
Có 2 con chuột cùng
rơi vào một xô kem.
Con chuột đầu tiên bỏ cuộc
ngay lập tức và chết chìm.
Con chuột thứ hai...
thì không như vậy.
Nó cố gắng hết sức, đến mức xô kem
bị đánh tan dần và biến thành bơ...
và nó thoát ra thành công.
Thưa quý vị, vào thời điểm này,
tôi chính là con chuột thứ 2 đấy.
[ laughter and enthusiastic
applause ]
[ "Embraceable You" playing
on record player ]
Con nhảy đẹp hơn bố
nhiều đấy, Frankie.
Bố nghe thấy chưa?
Vui thôi mà.
Con gái thì không biết được
mình đang nói cái gì đâu.
Cho con nó xem điệu nhảy hồi
chúng ta gặp nhau đi.
Ôi, ai mà nhớ được chứ.
Người dân Pháp trong ngôi làng nhỏ
xíu ấy được có dịp gặp một đoàn Mỹ...
họ vui đến mức tổ chức một buổi
đón tiếp hơn 200 anh lính...
Rồi rồi, bố đã kể chuyện đấy rồi.
...trong một cái hội trường bé tẹo.
Người đầu tiên bước lên sân khấu chính
là mẹ con, và bà nhảy điệu đấy.
Con biết đấy, cả tháng rồi bố con
mình chưa được gặp con gái
và bây giờ đã có một
thiên thần tóc vàng ở đây.
Quả bom vàng.
[ giggles ]
Những người đàn ông đang
ngừng thở vì nàng.
Ngừng thở vì mẹ đấy.
Mẹ nghe chưa?
[ giggles ]
Mm-hmm.
Rồi bố quay sang anh bạn
bên cạnh mình và nói...
"Tớ sẽ không đi khỏi nước
Pháp mà không có cô ấy."
Và bố đã không làm vậy.
Bố không làm vậy.
Bố không làm vậy.
[ liquid spills ]
Ôi chết tiệt! Cái thảm!
Ôi nào, mẹ...
Không thể tin được
mẹ lại làm vậy.
Không có gì,
không có gì đâu.
À, Frankie, Frankie,
lấy mẹ cái giẻ lau.
- Yeah, yeah.
- Paula...
Dậy nào.
My sweet embraceable you...
Nhảy với anh nào, Paula.
Ah...
[ instrumental interlude
playing ]
Cứ mỗi khi nhảy cùng anh
là em lại gặp rắc rối.
Coi này.
[ chuckles ]
Oh!
Frank! Dậy đi.
Nào nào, dậy thôi.
Dậy đi. Nào, dậy đi.
Frank, dậy đi.
Bố...
Hôm nay con không phải đến trường,
không sao đâu.
Thế thì có chuyện gì? Tuyết rơi à?
Con đã có bộ comlê đen nào chưa?
Con lại ngủ nướng nữa phải không?
Hôm nay chúng ta phải dự một cuộc
họp rất quan trọng của thành phố.
Ăn đi nào. Nhanh lên, ăn nào.
Cô ơi, mở cửa ra.
Mở cửa ra đi!
- Cô ơi!
- Quan trọng lắm!
Chuyện gì thế?
Ôi Chúa ơi!
Nửa tiếng nữa cửa hàng mới mở cửa.
Xin cô cứ mở cái cửa
ra thôi được không.
Có chuyện quan trọng lắm.
T-tôi xin lỗi, nửa tiếng
nữa cửa hàng mới mở.
Tên cô là gì?
Darcy.
Darcy. Một cái tên rất đẹp.
Bây giờ tôi đang có chút rắc rối,
tôi cần một bộ vest đen.
Một bộ vest cho con trai tôi, Frank.
Oh, hi.
Nó cần một bộ vest màu đen.
Vest đen...
Bố tôi vừa mới qua đời xong.
85 tuổi, anh hùng chiến tranh.
Vậy sao?
Chiều nay sẽ có một đám tang,
đám tang nghi lễ quân đội,
máy bay bay trên bầu trời,
đại bác bắn tưởng niệm.
Geez.
Frank nó cần thuê một bộ vest
trong vài giờ.
Xin lỗi, chúng tôi không cho thuê
quần áo, và chúng tôi chưa mở cửa.
Darcy... Darcy, xin cô đấy.
Quay lại đi.
Darcy... cái này của cô phải không?
[ jingles ]
Tôi vừa nhặt được ở chỗ đậu xe.
Đúng rồi.
Chắc nó mới tuột khỏi cổ cô đấy.
[ tires screeching ]
Đạp phanh cho đúng vào.
[ brakes squeaking ]
Bây giờ ra ngoài, vòng ra sau xe
và mở cửa cho bố.
[ car horn honks ]
Được rồi.
Tiếp theo là gì?
Được rồi, đừng nhăn nhở nữa.
Khi bố đã vào trong rồi, con ngồi
vào ghế trước và đợi nhé.
Kể cả có bị cảnh sát đến viết giấy phạt
thì cũng không được di chuyển, hiểu chứ?
Bố, tất cả chuyện này
là như thế nào?
Côn biết tại sao đội Yankees
luôn thắng không, Frank?
Vì họ có Mickey Mantle?
Không, vì các đội khác luôn mất
tập trung vào quần áo của họ.
Xem này.
Ngài giám đốc ngân hàng Manhattan
chuẩn bị ra mở cửa cho bố đây.
Ông Abagnale, ừm,
chúng tôi ít khi cho vay với những ai
có dính dáng đến Tổng Cục Thuế lắm.
Thật là một sự hiểu lầm.
Tôi đã lỡ thuê một gã vớ vẩn
để làm báo cáo tài chính.
Ai mà chả có lúc phạm sai lầm chứ.
Tôi chỉ muốn các anh giúp tôi
vượt qua cơn bão này thôi.
Thưa ông, ông đang bị chính phủ
điều tra về tội gian lận thuế.
Cửa hàng của tôi nằm ngay
trên mỏm đá New Rochelle.
Tôi có khách hàng khắp New York.
À, ông không phải khách hàng
ở ngân hàng Manhattan.
Bọn tôi không biết ông là ai.
Chắc chắn là ngân hàng
ở New Rochelle của ông
quen ông hơn, họ sẽ
giúp được ông.
Ngân hàng của tôi đã ngừng hoạt động.
Chính những ngân hàng kiểu này
đã khiến họ ngừng hoạt động đấy.
Đúng là tôi đã phạm sai lầm, tôi công nhận,
nhưng những gã này rất nguy hiểm.
Họ muốn cửa hàng của tôi.
Họ đã dọa sẽ tống tôi vào tù.
[ stammers ]
Đây là nước Mỹ, phải không?
Tôi không phải một tội phạm.
Tôi đã từng được trao
Huân Chương Danh Dự,
được trao thành tựu trọn đời ở Tổ chức
bảo vệ hòa bình cộng đồng Rochelle
Tôi chỉ đang muốn ông giúp tôi
hạ những kẻ đấy thôi.
Vấn đề không phải thắng hay thua.
Vấn đề là quá mạo hiểm.
Ngân hàng của ông lớn nhất thế giới.
Lấy đâu ra cái ch...
L...lấy đâu ra mạo hiểm chứ?
Bố, sao bố lại để ông ta lấy
xe của mình đi như vậy được?
Ông ta chẳng lấy được gì cả,
mình đã lấy của ông ta.
Ông ta đã trả lố 500$.
Đi nào, Frank.
Đi trả bộ vest lại thôi.
[ Paula sobbing ]
Nơi này rất tốt đấy.
Tuy hơi nhỏ một chút, nhưng chúng ta
sẽ không phải làm việc nặng nhọc nữa.
Công việc sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều.
[ jackhammer drilling
in distance ]
[ keys clank ]
Chào bố.
Chào con.
Mẹ đâu rồi?
Con không biết.
Mẹ bảo là đi tìm việc rồi.
Chẳng biết định làm gì đây,
đi bán giày da ở một
nông trại à?
[ laughing ]
[ both laughing ]
Con đang làm gì thế?
[ both laughing ]
Bố ăn bánh gatô không?
Để ăn tối?
Trong ngày sinh nhật thứ 16
của con trai tôi?
Chúng ta sẽ không ăn bánh gatô đâu.
Thôi nào, đừng nhìn bố như thế chứ.
Con nghĩ bố quên mất à?
- Con không nghĩ là bố quên.
- Bố đã mở một tài khoản ngân hàng
đứng tên con.
Bố đã nạp 25$ vào tài khoản
để con có thể tự sử dụng.
Đừng cho mẹ biết nhé.
Con biết.
Cảm ơn bố.
Yep.
Chẳng phải ngân hàng đó đã
từ chối cho bố vay tiền à?
Đúng, tất cả đều từ chối.
[ chuckles ]
Thế sao bố còn đi mở một
tài khoản ở chỗ họ?
Vì rồi một ngày, con sẽ cần
thứ gì đó ở họ, nhà cửa, xe cộ...
Họ có rất nhiều tiền.
Trong này có 50 cái ngân phiếu, Frank.
Cũng có nghĩa từ bây giờ, con đã được
tham gia CLB nhỏ bé đó cùng bố.
Con đã vào câu lạc bộ nhỏ bé đó.
Có cái đó là con sẽ có tất cả.
Còn có cả tên con ghi ở đây này.
Hướng đến mặt trăng.
- Hướng đến mặt trăng!
- Hướng đến mặt trăng.
[ bells tolling ]
Thấy chưa, trường học ở đây
cũng chỉ thế thôi.
Chẳng khác gì ở Westbourne cả.
Mẹ... Mẹ đã nói là sẽ bỏ thuốc.
Frankie, ở đây con không
phải mặc đồng phục đâu.
Sao không cởi áo khoác ra đi?
Con quen rồi.
[ indistinct conversation ]
Xin lỗi.
Chuyện gì vậy?
Bạn biết lớp tiếng Pháp 17 ở đâu không?
Ừ, nó...
[ snickering ]
[ school bell ringing ]
Nhưng cậu suýt giết nó rồi còn gì.
[ loud indistinct conversation ]
Mày đến thay từ điển bách khoa di động à?
Trông như thằng giáo viên dạy thay ấy.
[ boy laughing ]
[ loud conversation
and laughter continues ]
Học sinh, trật tự!
Tên tôi là Abagnale!
Abagnale, không phải Abagnahlee,
không phải Abagnaylee, là Abagnale!
Bây giờ, em nào cho tôi biết buổi trước
chúng ta đã học đến bài nào trong SGK.
Có cần tôi phải hỏi lại nữa không?
Đừng để tôi phải ghi tên cả lớp đấy!
Về chỗ ngồi đi!
Chương 7 ạ.
Các em mở sách ra đến chương 8,
chúng ta bắt đầu học.
Xin lỗi, tên em là gì?
Brad.
Brad, sao em không lên đứng trước lớp
và đọc đoạn hội thoại số 5 cho tôi?
Les Francais sonts
à, generalement
dans leur pais que...
presque tout le monde
a cette impression...
Họ bảo tôi đến lớp này.
Họ nói cần giáo viên
dạy thay cho Roberta.
Tôi đi từ tận Dixon ra đây.
Tôi luôn là người dạy thay cho Roberta.
Sao em không đọc tiếp đi?
[ continues reading ]
Tôi sẽ không bao giờ quay trở lại
cái trường này nữa!
Bảo họ đừng bao giờ gọi tôi nữa!
Họ nghĩ cái gì trong đầu nữa,
một bà già như tôi
và từng ấy tiền bỏ ra để đi lại?
Họ chẳng thèm quan tâm tí gì cả.
[ students laughing ]
Thưa ông bà Abagnale,
việc này không phải vì con trai
ông bà trốn học hay gì khác.
Tôi rất tiếc phải thông báo
rằng trong suốt tuần vừa qua,
Frank đã đứng dạy lớp tiếng
Pháp của cô Glasser.
Nó làm gì cơ?
Con trai ông bà đã giả bộ
làm một giáo viên dạy thay,
giảng bài cho học sinh,
giao bài tập về nhà.
Cô Glasser đang bị ốm, và có một sự
nhầm lẫn với giáo viên dạy thay thật.
Hôm qua con trai ông bà đã
tổ chức một cuộc họp phụ huynh,
và dự định cho lớp đi thăm quan một nhà
máy sản xuất bánh mì Pháp ở Trenton.
Ông bà đã thấy được vấn đề ở đây chưa?
- Cô Davenport?
- Đây.
Cháu có giấy phép xin nghỉ
tiết 5 và 6 hôm nay.
Giấy hẹn đi khám bác sĩ.
Đợi một chút.
Cô ra ngay đây.
Này...
Ừ?
Cậu nên cất nó đi.
Sao cơ?
Cái giấy phép, là giả phải không?
Cậu nên gấp lại và cất đi.
Nó...Nó là giấy phép mẹ tớ đưa.
Tớ phải đi khám bác sĩ.
Đúng, nhưng tớ giấy không có
nếp nhăn nào.
Khi mẹ đưa giấy phép
nghỉ học cho cậu,
điều đầu tiên phải làm là
gấp nó lại và bỏ vào trong túi.
Ý tớ là, nếu là thật thì
nếp nhăn trên giấy đâu?
- [ school bell ringing ]
- [ door opens ]
Frankie.
[ both chuckling quietly ]
Mẹ, con về rồi đây.
[ romantic music
plays on record player ]
Mẹ có nhớ cô bạn Joanna mà buổi
trước con kể cho mẹ không?
Hôm nay con đã mời cô ấy đi chơi.
Có lẽ bọn con sẽ cùng đến dự
prom của khối 10.
[ record scratches,
music stops ]
Mẹ, bằng lái xe của con đây à?
Tất cả chỉ có vậy thôi, 2 phòng ngủ.
A, Frankie.
Con có nhớ bác bạn của bố không?
Jack Barnes?
Từ câu lạc bộ đấy.
Chào bác.
Bác đến đây tìm gặp bố.
Mẹ đang dẫn bác đi
thăm quan nhà mình.
Nhà rất rộng rãi đấy, Paula.
Bố cháu ở cửa hàng đấy.
Frank, càng lớn cháu
càng giống bố đấy.
Cảm ơn vì món sandwich nhé, Paula.
- Gặp lại cháu sau nhé?
- Từ từ bác.
Cái này của bác à?
Ồ.
Cảm ơn cháu nhé, Frank.
Nó là cái kẹp ghim của tổng thống đấy.
Bác mà mất nó là rắc rối to.
[ nervous chuckle ]
Gặp lại cháu sau nhé.
Con có đói không, Frankie?
Để mẹ làm sandwich cho.
Jack muốn bàn chuyện
làm ăn với bố con.
Bác ấy muốn chúng ta thuê luật
sư để kiện lại chính phủ.
Những gì họ đang làm với chúng
ta là bất hợp pháp.
Sao con không nói gì cả?
Con sẽ không nói gì với ông ấy chứ?
Không.
Phải đấy.
Chẳng có gì để nói cả.
Bây giờ mẹ ra nòoài đi thăm mấy cô
bạn trong hội đánh tennis một lúc...
khi nào mẹ về chúng ta sẽ cùng ăn tối.
Được chứ?
Nhưng con sẽ không nói gì cả
vì nó... nó thật ngu ngốc, phải không?
Làm sao chúng ta có thể đi kiện ai chứ?
À, con có cần tiền không, Frankie?
Cầm chút tiền đi mua đĩa nhạc nhé?
Đây, cầm lấy 5 đô này.
Hay là 10 nhé.
Mẹ đã hữa sẽ bỏ thuốc.
[ slams ]
[ children laughing ]
[ dog barking in distance ]
Mẹ, con về rồi đây!
[ door opens ]
Này, này!
Ông tránh xa tôi ra, nghe rõ chưa?
Tránh xa tôi ra...!
Tôi không cần biết ông là ai,
nhưng nếu ông dám
quay lại đây lần nữa...
Frankie! Frank, Frank,
bình tĩnh đi con!
Bác là *** Kesner.
Bây giờ bác muốn cháu để
các thứ lại ở đây
và theo bác đi sang phòng
bên cạnh, được chứ?
Mọi người đều đang đợi cháu đấy.
Con không việc gì phải sợ cả.
Đã có mẹ ở đây, Frank.
Đã có mẹ ở đây.
Nhưng sống ở đất nước này chúng ta
phải làm mọi việc theo pháp luật.
Vì vậy mình buộc phải đưa
ra quyết định theo luật.
Bác Kesner đến đây vì việc đó.
Nhiều khi quyết định được
đưa ra bởi tòa án,
nhưng như thế sẽ rất tốn kém, Frank.
Mọi người tranh giành nhau vì con cái.
Không ai phải tranh giành gì cả.
Nhìn mẹ này, Frank.
Không ai phải tranh giành gì cả.
[ speaking French ]
[ quietly ]:
Dad, what's going on?
Bố, chuyện gì đang xảy ra?
[ speaking French continues ]
Con nhớ bà ngoại Eve chứ?
Bà mới đến sáng nay.
[ speaks French ]
Chào bà.
Con có hiểu những gì mẹ
đang nói không, Frank?
Bố mẹ đang làm thủ tục ly dị.
[ speaking French ]
Mọi việc vẫn sẽ như thế,
không khác gì ngày trước.
Bố mẹ vẫn sẽ gặp nhau.
Thôi đi, Frank, đừng chen ngang.
Frank, cháu không phải
đọc tất cả thứ này.
Hầu hết là cho bố mẹ,
chuyện của người lớn...
nhưng đoạn này rất quan trọng, nó quyết
định cháu sẽ ở cùng ai sau khi ly hôn,
Sau khi ly thân...
ai sẽ giành quyền chăm sóc cháu.
Có một chỗ trống ở đây.
[ Eve speaking French ]
Bác muốn cháu đi vào trong bếp,
ngồi xuống
và điền một cái tên vào.
Cháu muốn ngồi nghĩ bao lâu cũng được,
nhưng bác muốn khi quay vào...
Chỗ trống đó đã được lấp
bằng một cái tên.
Frank, cứ viết một cái tên vào và
tất cả chuyện này sẽ kết thúc.
Mọi chuyện sẽ không sao đâu.
Bố, tên gì cơ?
Tên bố, hoặc mẹ cháu.
Cháu chỉ cần viết một cái tên
vào đấy, đơn giản vậy thối.
Và đừng căng thẳng quá như thế.
Đây không phải một bài kiểm tra.
Không có đáp án nào là sai.
[ man announcing trains
indistinctly ]
[ melancholy jazz playing ]
Xin chào.
[ panting ]
Cho một vé đến Nhà Ga Lớn.
Giá vé 3.50$.
Viết ngân phiếu thanh toán có được không?
Carl, khi nào tôi mới
được gọi cho bố?
Khi nào chúng ta đến New York
cậu sẽ được gọi.
Chúng ta sẽ đến sân bay
trong 7 tiếng nữa.
Từ giờ đến lúc đó thì
cứ ngồi yên đấy.
Giữ trật tự.
Ông biết không Carl, ngay phía bên kia
khách sạn có những phòng điều hòa và TV.
Đây là phòng tốt nhất
FBI có thể lo được.
Cũng không sao, tôi đã từng
ở những nơi tồi tệ hơn nhiều.
Ông Mudrick...
Ông Mudrink, xin ông đấy,
hãy nghe tôi!
Tôi không muốn nghe gì cả.
2 cái ngân phiếu này vừa bị
ngân hàng từ chối thanh toán.
Cậu biết tôi đã gặp rắc rối
chừng nào không?
Không, nhưng tôi biết, ngân
hàng đã nhầm chỗ nào đó!
Tôi sẽ viết ngay cho
ông một ngân phiếu khác!
Cậu trông tôi như vừa
mới đẻ hôm qua xong à?
Bây giờ là giữa đêm, ông Mudrick!
Tôi biết đi đâu bây giờ?
Một thằng nhóc thì đi đâu,
về nhà đi.
[ baby crying in distance ]
Hy vọng cô hiểu cho.
Ông chủ đã gửi tôi đến tận Brooklyn,
rồi đến Queens.
Bây giờ lại bắt tôi đến Long Island
để tiếp vài vị khách ra ăn tối.
Xin lỗi, nhưng chúng tôi không được
phép nhận ngân phiếu từ các ngân hàng khác.
Làm sao chúng tôi biết được
họ có gì mờ ám không?
Cô vừa nói tên cô là gì?
Ashley.
Ashley...Cô biết tôi vừa nhặt được
cái gì ở ngoài vỉa hè không?
Chắc mới tuột khỏi cổ cô đấy.
Tôi có thể giúp gì được, cậu nhóc?
Tuần sau là sinh nhật bà cháu rồi,
cháu muốn tặng bà một thứ gì
đấy thật đặc biệt.
Đi mà, tuần sau cháu phải thi giữa học
kỳ, mà sách vở của cháu mất hết rồi.
[ raspy coughing ]
Chỉ là 5 đôla thôi mà.
Sẽ chẳng có ai biết đâu.
Xin lỗi, nhưng chúng tôi không được
phép nhận ngân phiếu từ người lạ mặt.
[ horns honking,
whistle blowing ]
[ women laughing ]
Chào mừng ngài quay trở lại,
phi trưởng Carlson.
Anh đoán gì nào, Angelo?
Thời tiết chiều nay
rất thuận lợi đấy.
[ women giggling ]
Chà chà, xem ai đây nào?
- Bác cho cháu xin chữ ký nhé!
- Sẵn sàng.
- Cho cháu xin với được không?
- Cháu muốn thành một phi công không?
- Có ạ!
- Thế thì được thôi.
Của cháu đây.
Học hành chăm chỉ nhé!
Gửi bố,
Con đã quyết định sẽ
trở thành một phi công.
Con đã nộp hồ sơ vào tất cả
các hãng hàng không lớn,
và nhiều cuộc hẹn phỏng vấn
rất hứa hẹn đang đợi con.
Mẹ thế nào rồi?
Gần đây bố có hay
gọi cho mẹ không?
Yêu bố,
con trai Frank.
Xin chào.
Cháu là Frank Black từ
trường trung học Murrow.
Cháu có hẹn gặp với ông Morgan.
Cậu là chàng trai trẻ hay viết
bài cho báo trường phải không?
Vâng, đúng là cháu.
Cháu cần biết
tất cả những gì có thể
về một phi công máy bay.
Hãng Pan Am có chuyến bay
đến những phi trường nào?
Một phi công bay bao
nhiêu chuyến trong năm?
Ai là người ra lệnh về
việc họ sẽ bay đến đâu?
Từ từ từ từ, chậm lại thôi nào.
Cậu cứ hỏi từng câu một.
Được rồi. Khi một phi công nói với
phi công khác câu này thì nghĩa là gì?
"Anh đang xài loại nào đấy?"
Có nghĩa họ muốn biết loại
máy bay anh đang lái,
Có phải là một chiếc
DC-707 Ngôi Sao không?
Thế còn những tấm thẻ căn cước thường
thấy ở trước ngực của phi công?
À, mỗi phi công đều luôn có hai thứ
bên mình: một là thẻ căn cước cá nhân...
trông giống như cái này,
của Pan Am phát...
và hai là bằng lái máy bay
của Hiệp Hội Hàng Không...
trông nó như thế này.
Bác cho phép cháu làm một bản sao
để cho vào bài báo được chứ?
Frank, cậu cứ cầm cái đấy đi.
3 năm nữa nó mới hết hạn.
Cảm ơn bác! Thế còn
cái thẻ căn cước?
Bác còn cái thẻ sơ cua nào cháu
có thể mượn được không?
Ồ, cái đấy thì bác không giúp được.
Nó được đặt hàng đặc biệt
từ Polaroid.
Cách duy nhất để có được một cái là
trở thành phi công thật cho Pan Am.
[ dialing phone ]
[ car horns honking,
whistle blowing ]
Hãng Hàng Không Pan Am xin nghe.
Vâng, xin chào.
Tôi gọi về chuyện quần áo đồng phục.
Xin giữ máy.
Cảm ơn.
Bộ phận tư vấn nhân viên xin nghe.
Xin chào. Tôi là trợ lý phi công
ở sân bay San Francisco.
Tối qua tôi vừa bay
vào New York xong,
nhưng vấn đề là tôi sắp phải
bay đến Paris trong 3 giờ nữa.
Bọn tôi giúp gì được cho anh?
Tôi đã gửi đồng phục của mình
ở dịch vụ giặt là khách sạn,
và có vẻ như họ đã làm mất nó.
Khách sạn thì suốt ngày
làm mất đồ của khách.
Hãy đến công ty may mặc
Well-Built ở số 9 Broadway.
Họ là nhà cung cấp
đồng phục cho hãng.
Tôi sẽ báo trước ông Rosen
là anh đang đến.
Trông cậu quá trẻ để
làm phi công đấy.
Cháu là trợ lý thôi.
Sao phải hồi hộp thế?
Nếu ngay tuần đầu nhận việc đã làm
mất đồng phục, bác sẽ thấy thế nào?
Cứ thoải mái đi.
Pan Am không thiếu đồng phục đâu.
Tất cả là 164$.
Tuyệt. Để cháu viết ngân phiếu cho bác.
Không, không ngân phiếu, không tiền mặt.
Cậu chỉ cần điền mã số nhân viên
và Pan Am sẽ thanh toán.
Họ sẽ trừ vào lương của cậu.
Thế thì càng tốt.
Gửi bố,
Bố luôn dạy con rằn một đấng nam nhi
trung thực thì không có gì phải sợ cả.
Vì vậy con đang cố hết sức
để không phải sợ cái gì.
Con xin lỗi vì đã bỏ chạy,
nhưng bố đừng lo gì.
Con sẽ lấy lại tất cả.
Con hứa, con sẽ lấy lại tất cả.
[ approving murmur ]
Anh là phi công thật à?
Chắc chắn rồi, quý cô bé nhỏ.
Tên em là gì?
Celine ạ.
Celine, rất vui được gặp em.
Em cũng rất vui được gặp anh.
50, 70
80, 90, 100 đôla.
Chúc anh đến Paris vui vẻ.
Chắc chắn rồi.
Xin lỗi.
Tôi là John Modiger,
giám đốc chi nhanh này.
Tôi muốn cảm ơn các anh đã tin tưởng
sử dụng dịch vụ của chúng tôi.
Rất vui được gặp ông, John.
Tôi sẽ quay trở lại.
Tốt lắm.
Anh đã từng ở chỗ chúng
tôi bao giờ chưa?
Không, trước giờ chủ yếu
tôi làm việc ở miền Tây.
Tôi viết ngân phiếu thanh toán
tiền phòng được chứ?
Được thôi.
Tuyệt
À...
Liệu tôi có thể viết ngân phiếu thanh
toán cá nhân được không?
Với nhân viên hàng không, chúng tôi
nhận ngân phiếu cá nhân tối đa là 100$.
Nếu là giấy thanh toán lương,
chúng tôi nhận 300$.
Anh vừa nói 300$ với giấy trả lương?
[ typewriter keys clacking ]
Gửi bố,
Con đã quyết định trở thành
phi công cho hãng Pan American,
cái tên được tin tưởng
nhất trên toàn bầu trời.
Họ đã nhận con vào chương trình đào
tạo, và nói nếu con học tập chăm chỉ
con sẽ sớm được tự mình bay.
Bố hãy liên lạc với cô bạn Joanna
Carlton hồi lớp 10 của con.
Nhờ bố gửi lời xin lỗi vì con đã
không đưa cô ấy đến buổi prom được.
Yêu bố,
con trai Frank.
Xin chào, cô khỏe chứ?
Khỏe, cảm ơn anh.
Tôi muốn đổi giấy thanh toán
lương đây ra tiền mặt.
Xong ngay thôi.
Cảm ơn.
Ừm, xin lỗi.
Tôi biết cô đã nghe
cái này suốt rồi,
nhưng cô có đôi mắt quyến rũ
nhất tôi từng được thấy.
Ừ, tôi cũng nghe cái đó suốt.
[ nervous laugh ]
Anh muốn nhận thế nào?
Chúng tôi phải xin lỗi.
Chúng tôi không có tiền mặt
cho đến khi ngân hàng mở cửa,
nhưng chắc là anh có thể rút
tiền từ ngân phiếu ở sân bay đấy.
Sân bay?
Ai lại đi rút ngân phiếu ở sân bay?
Các hãng hàng không luôn
phục vụ nhân viên của mình.
[ jet passing overhead ]
[ indistinct flight announcement
over P.A. ]
Xin chào.
Xin chào. Anh là nhân viên đi kèm à?
Sao cơ?
Anh có phải nhân viên đi kèm đến Miami?
Mi...?
Đúng, đúng rồi.
[ laughs ]
Đúng rồi, nhân viên đi kèm đây.
Đi thôi.
Anh đến hơi muộn, nhưng chỗ
ghế bật vẫn còn mở.
Cô biết đấy, lâu lắm rồi tôi
mới lại làm mấy chuyện này,
Lại lần nữa, ghế bật là chỗ ghế nào?
[ both laughing ]
Chuyến bay vui vẻ nhé.
Anh là nhân viên đi kèm phải không?
Frank, phi trưởng Oliver.
- John Larkin, trợ lý.
- Xin chào.
Fred Tulley, kiểm tra động cơ.
Frank Taylor, Pan Am.
Cảm ơn đã cho tôi đi nhờ nhé.
Cứ ngồi thoải mái đi, Frank.
Chuẩn bị cất cánh rồi.
Cậu đang xài loại nào đấy, DC-A?
À, 707.
Lại chuyển sang bay chuyến đêm à?
Chuyển sang bay đêm
để buổi sáng còn
có thời gian chơi bời tí chứ.
Không việc gì phải ngại cả,
thanh niên ai chả thế.
Ngồi xuống đi.
Cảm ơn.
Anh muốn uống gì sau
khi cất cánh không?
Sữa?
Tốc độ cất cánh.
Đã xong.
Cần Một. Lên trên.
[ jet engines roaring ]
Cần Hai. Xoay ngang.
Cất cánh.
Gửi bố,
Hôm nay là lễ tốt nghiệp.
Bây giờ con đã là trợ lý phi công
với mức khởi đầu 1400$/tháng,
và tuyệt nhất là họ nói gia
đình được bay theo miễn phí.
Vì vậy bố hãy bảo mẹ sắp xếp
hành lý và mua bộ đồ bơi mới,
vì Giáng Sinh này con sẽ đưa
cả nhà đến Hawaii.
Yêu bố.
Aloha, Frank.
Xin chào, anh bạn đi kèm.
Xin chào.
Bay miễn phí vui chứ?
Marci...
cô làm rơi cái này phải không?
Chắc là mới tuột khỏi cổ cô đấy.
Không...
[ chuckling ]
Không!
Không...
Có, có, có, có thế chứ!
[ Frank moans passionately ]
Có chứ!
[ clanking and clattering ]
[ Marci panting ]
Sao anh lại ngừng?
Anh muốn nói với em một điều, Marci.
Anh chưa từng có một cuộc hẹn
nào tuyệt như thế này.
[ laughing ]
WOMAN:
I'd like to open a Money Market,
please.
Okay.
Chào mừng đến với ngân hàng Miami.
Tôi giúp gì được anh?
Tên tôi là Frank Taylor,
trợ lý phi công hãng Pan Am.
Tôi muốn được rút tiền từ
tấm ngân phiếu này, và rồi
tôi muốn được mời cô đi ăn tối.
[ laughing ]
[ teller giggling ]
Rồi chúng tôi đưa các loại ngân phiếu
vào cái máy quét này,
nó dùng một loại mực đặc biệt để
mã hóa số tài khoản trên đó.
Thế những con số đấy ở đâu?
Chúng ở, ngay đây.
Ngay đây?
Anh thấy chưa?
[ both giggling ]
Chúng được gọi là mã số tài khoản.
Vậy những tấm ngân phiếu được
mã hóa chuyển đến đâu?
Tôi cũng không rõ nữa.
Chưa ai từng hỏi tôi câu đấy cả.
[ both laughing ]
Vật đấu giá tiếp theo của chúng ta cũng được
tịch thu từ ngân hàng Jersey sau khi phá sản.
Đây là máy quét dùng để mã hóa
ngân phiếu ở ngân hàng.
Có ai đặt giá mở đầu không?
Đây là một dạng tội phạm lừa
đảo trong lĩnh vực tài chính,
bắt nguồn từ khu vực phía Đông.
Trong vài tuần vừa qua, hắn đã tạo ra một
hình thức lừa đảo mới, gọi là "phao nổi".
Hắn đã mở một loạt tài khoản
ở nhiều ngân hàng khác nhau,
rồi thay đổi mực in mã số
tài khoản trên các tấm ngân phiếu.
Slide tiếp.
[ projector clanks ]
Slide tiếp nào.
Cái điều khiển hỏng rồi.
Phải dùng tay thôi.
Phải thử... dùng cái...
Đặc vụ Mullen, nó là cái nút hình
vuông ngay bên cạnh đấy.
Cái máy chiếu này không chịu hoạt động.
Như muốn hỏng lắm rồi đấy.
Cảm ơn, đặc vụ Mullen.
Phải điều khiển bằng tay thôi.
Đây là bản đồ 12 ngân hàng
Trung Ương Hoa Kỳ.
Slide tiếp.
[ clicking ]
Máy quét mã số ở tất cả các ngân hàng sẽ
đọc các con số ở cuối tấm ngân phiếu...
Slide tiếp...
và gửi thông tin mã hóa đấy về
chi nhánh ngân hàng gốc của nó.
Carl, với những người không quen
lắm với dạng tội phạm tài chính,
anh có phiền cho bọn tôi biết anh
đang nói về cái khỉ gì không?
Những chi nhánh phía đông được
đặt số từ 0-0 đến 0-6.
Những chi nhánh miền trung
được đặt 0-7 và 0-8,
và cứ thế.
Ý anh là mấy con số ở cuối cái ngân
phiếu đấy cũng có ý nghĩa à?
Tất cả đều từ những tài liệu
tôi tìm đọc 2 hôm trước.
Nếu anh thay đổi con số từ 0-2
thành 1-2...
thì ngân phiếu đấy
đáng lẽ được rút ở New York
lại không đi về chi nhánh New York,
mà lại bị đổi hướng sang
chi nhánh San Francisco.
Ngân hàng thậm chí không biết ngân phiếu
đã bị từ chối từ 2 tuần trước rồi.
Có nghĩa đối tượng chỉ cần ở yên một
chỗ, thay đổi mã số liên tục
trong khi các ngân phiếu của
hắn đi vòng quanh nước Mỹ.
Có lẽ anh nên nói chuyện với vợ tôi.
Bà ấy là tay hòm chìa khóa,
quản lý mọi chi tiêu trong nhà.
[ agents laughing ]
Slide tiếp.
[ three-piece combo
plays soft jazz ]
Bố!
[ chuckling ]
Chàng phi công trẻ, con trai tôi.
Đồng phục đẹp lắm, Frank.
Bố thấy thế nào?
Rất đẹp.
Bố ngồi xuống đi.
[ clears throat ]
Bố nhận được mấy tấm bưu thiếp chưa?
Đương nhiên rồi.
Cái nĩa này lạnh như đá.
Không phải đâu, vì món
salad được đông lạnh đấy.
Đây là một nhà hàng đặc biệt mà.
[ sighing ]
Đây...
Con có quà tặng cho bố.
Cái gì thế?
Bố mở đi.
Bố biết nó là cái gì chứ?
Chìa khóa của chiếc
Cadillac Deville đời 1965.
Mới nguyên đấy.
Sơn đỏ, nội thất trắng, chỗ ngồi
riêng biệt, điều hòa nhiệt độ.
Con tặng bố một chiếc Cadillac à?
Vâng, con tặng bố một chiếc Cadillac.
Bố, xe đậu ngay dưới kia.
Khi chúng ta ăn xong, sao bố
không lái ngay đến chỗ mẹ
để khoe chiếc xe mới của mình?
Con có biết chuyện gì sẽ xảy ra
khi cục kiểm thuế biết rằng
bố đang đi lại trên một
chiếc siêu xe mới không?
Bố đã đi tàu đến đây, Frank.
Và bố cũng sẽ đi tàu về.
Cũng được thôi.
Con có rất nhiều tiền.
Nếu như bố có cần bất cứ thứ gì...
Con đang lo?
Cho bố à?
Không, con... con không lo.
Con nghĩ bố không thể tự
mình mua xe được à?
2 con chuột cùng rơi
vào một xô kem, Frank.
Bố là con nào?
Bố là con thứ 2.
Hôm nay con đã đi qua
cửa hàng nhà mình.
Bố phải đóng cửa một thời gian.
Chỉ là tùy thời cơ thôi, Frank.
Bọn chính phủ chết tiệt
cũng biết điều đó.
Họ dìm mình xuống vào
những lúc chết nhất.
Bố không muốn để họ
lấy hết của mình,
vì vậy bố tự đóng cửa,
nói là bị lừa hết rồi.
Sớm muộn gì họ cũng sẽ
quên hết mọi chuyện thôi.
Con hiểu...
Bố đã cho mẹ biết chưa?
Bà ấy quá bướng bỉnh, ngoan cố.
Đừng lo.
Bố sẽ không để mẹ đi
dễ dàng như vậy.
Bố đã chiến đấu vì cả 2...
[ gasps quietly ]
Bố?
...từ ngày... bố mẹ gặp nhau.
Bố, hãy nhớ chính bố đã giành được
mẹ giữa từng đấy người đàn ông.
200 người, trong cái hội trường
bé xíu, cùng ngồi xem bà ấy nhảy.
Cái làng đấy tên là gì?
Montrichard.
Đúng rồi.
Bố thậm chí không biết một
chữ tiếng Pháp bẻ đôi,
và 6 tuần sau, cô ấy là v...
Là vợ của bố.
Hôm nay con trai tôi mua
cho tôi một chiếc Cadillac.
Như thế đủ để nâng cốc uống mừng rồi.
[ soft jazz playing ]
[ inhaling deeply ]
Cho anh chàng phi công trẻ
tuyệt nhất trên bầu trời.
Cũng không hẳn như vậy.
Con chỉ là trợ lý phi công thôi.
Con có thấy những người đang
nhìn chằm chằm vào con không?
Đây là những người quyền lực nhất
trong thành phố New York,
và họ đang cố liếc mắt nhìn trộm,
tự hỏi xem tối nay con sẽ đi đâu.
Con sẽ đi đâu, Frank?
Bố, đâu có ai đang nhìn con.
Ra nước ngoài chứ?
Cứ nói với bố con sẽ đi đâu.
Los An... Hollywood.
Hollywood.
[ sniffles ]
toàn là thằng ngu cả.
Lúc đấy tôi mặc một cái váy đỏ, đi đôi
cao gót và cái áo lót trước ngực nữa.
Tôi đuổi theo 2 gã Puerto Rican
giữa màn đêm bóng tối.
Chúng cầm theo một vali đầy
tiền cướp được từ ngân hàng.
Và tôi hét thật lớn:
"FBI đây, đứng im!"
Tôi lục lấy khẩu súng trong cái
áo lót nhưng không tìm thấy đâu.
Nó to đến mức tôi tưởng đã
suýt bắn nát ti mình ra.
[ laughing ]
Đấy là một chuyện cười kinh điển,
lúc nào cũng có người nghe và cười.
Tôi hỏi anh câu này nhé, Amdursky.
Nếu anh hoạt động ngầm
mà vui như vậy,
sao tự nhiên lại chuyển sang
phòng tội phạm tài chính?
Tôi không tự chuyển.
Cấp trên khiển trách
và phải chuyển phòng.
Một cách trừng phạt,
tôi là nạn nhân.
Tôi làm hỏng hết mọi chuyện
khi đuổi bắt tội phạm.
Thế còn anh thì sao, Fox?
Anh cũng bị phạt vì
làm hỏng chuyện à?
Ồ không, tôi chưa từng
đuổi bắt tội phạm.
Tôi xin vào làm ở phòng điều
tra nhưng bị giáng xuống đấy.
Thật là tuyệt vời.
Tôi yêu cầu thêm cộng sự và
họ gửi những người thế này đây.
Tôi hỏi anh một câu có được không,
đặc vụ Hanratty?
Sao lúc nào anh cũng phải
đầy nghiêm trọng thế?
Có ảnh hưởng gì với
anh không, Amdursky?
Có, có ảnh hưởng với tôi đấy.
Có ảnh hưởng gì với anh không, Fox?
Chắc là có một chút.
Các anh có muốn nghe tôi
kể chuyện cười không?
Có, bọn tôi muốn nghe lắm.
Cốc, cốc, cốc.
Ai gọi đó?
Tự phệt mình đi.
[ swing music playing
on car radio ]
Tall and tan
and young and lovely
The girl from Ipanema...
Anh ta thanh toán bằng 3 ngân phiếu.
Tất cả đều hợp lệ.
Tôi đang định dùng tấm này
để rút tiền hôm nay.
Tôi không muốn dính vào rắc rối.
Không rắc rối.
Không có rắc rồi gì cả.
Chúng tôi sẽ lấy tấm ngân phiếu này.
Cảm ơn ông.
Tốt lắm.
Vì tôi không muốn khách hàng
của mình gặp rắc rối đâu.
...Each one she passes
goes ahh...
Ý ông là gì cơ, anh ta vẫn ở đây?
Phòng 201.
...Oh, but he watches
so sadly...
Xin cảm ơn.
Rẽ góc này
Ôi cảm ơn anh bạn trẻ.
...How can he tell her
he loves her...
Có bậc thang đấy.
Bậc thang.
Bác Murphy, bác khỏe chứ?
Frank đấy à?
Vâng, Frank đây.
Frank, cháu khỏe chứ?
Đầu gối thế nào rồi?
Có cần chạy đua với bác
ngay bây giờ không.
Bảo trọng nhé.
Chào nhé, Frank.
"Yểm trợ đằng sau"?
Thôi nào Carl, gã này chỉ biết
có mực và giấy in thôi.
Hắn thậm chí còn không có súng.
Sao bọn tôi không đi
cùng anh được, Carl?
Các anh cứ để mắt quan sát kỹ vào,
rồi tôi sẽ mua cho mấy quyển truyện cười.
[ grunts ]
[ gasps ]
Không sao đâu thưa cô, FBI đây.
[ whimpers ]
Phòng 201... 201, 201.
201...
201... 201... 201... 201...
[ anxious breathing ]
[ music building dramatically ]
FBI đây!
[ crunching ]
[ toilet flushing ]
FBI!
Ra khỏi phòng tắm ngay!
Ra khỏi phòng tắm ngay!
Đặt 2 tay lên đầu.
Máy đánh chữ mới nhất của IBM đấy.
Đặt 2 tay lên đầu ngay.
Có thể đổi mực và phông chữ
trong 5 giây.
- Im ngay!
- Chỉ cần bấm một nút.
Đặt 2 tay lên đầu ngay!
Đặt tay...!
Anh thấy không, hắn có hơn
200 ngân phiếu ở đây, mấy lít
- mực Ấn Độ, giấy in.
- Đặt 2 tay lên đầu ngay!
Thậm chí còn có bảng thanh toán lương
của hãng hàng không Pan Am.
Bỏ cái đấy xuống! Bỏ xuống!
Bình tĩnh nào.
Anh đã đến muộn, được chứ?
Tên tôi là Allen, Barry Allen.
Cơ quan điều tra ngầm Hoa Kỳ.
Đối tượng của anh vừa nhảy
ra ngoài cửa sổ xong.
Cộng sự của tôi đã bắt
giữ hắn dưới kia rồi.
Anh đang nói cái gì đấy?
Anh nghĩ chỉ có FBI mới
theo đuổi vụ này thôi à?
I mean, come on.
Hắn đang chơi đùa với cả hệ thống
tài chính trên nước Mỹ.
Chúng tôi đã lần theo dấu vết
của hắn suốt vài tháng nay rồi.
Anh có phiền bỏ khẩu súng đó
ra khỏi mặt tôi không?
Thật đấy.
Nó làm tôi căng thẳng hết cả mình.
Đưa tôi xem giấy tờ của anh.
Chắc chắn rồi.
Cứ cầm lấy cả ví này.
[ clears throat ]
Có cần lấy súng của tôi nữa không?
Lại đây, lấy súng của tôi này.
Này, này, làm giúp tôi
một chuyện được không?
Nhìn ra ngoài này.
Nhìn ra ngoài cửa sổ.
Cộng sự của tôi đang dẫn
hắn ra xe đấy, nhìn đi.
Tên tội phạm già tội nghiệp suýt
tè ra quần lúc tôi đạp cửa xông vào.
Hắn bay ra ngoài cửa sổ và
rơi trúng nắp xe tôi.
Này, Murph?
- Sao?
- Gọi lại cảnh sát Los Angeles đi.
Tôi không muốn có người đi lại
trong hiện trường vụ án đâu.
[ raspy cough ]
Tôi không ngờ cơ quan điều tra
ngầm cũng theo đuổi vụ này.
Đừng lo chuyện đấy.
[ clears throat ]
Tên anh là gì?
Hanratty, Carl Hanratty.
[ sighs ]
Cho tôi xem giấy tờ của anh được không?
Được thôi.
Thời buổi này lúc nào
cũng phải cẩn thận.
Số anh không may lắm đấy, Carl.
Sớm 5 phút thôi là anh đã có thành
tích mà báo cáo cấp trên rồi.
Không sao đâu.
Chậm 10 giây thôi là
anh đã bị bắn rồi.
Tôi xuống dưới cùng anh được không?
Tôi phải xem kỹ lại gã này đã.
Chắc chắn rồi.
Trước tiên anh cứ giữ nguyên vị trí, trong
lúc tôi di chuyển tang vật xuống dưới.
Anh biết đấy, tôi không muốn có một
cô phục vụ chạy vào và dọn phòng đâu.
Cảnh sát L.A sẽ đến ngay.
Đợi đã.
Ví của anh.
Anh cứ cầm tạm đi.
Tôi tin anh.
[ sighs ]
[ exhaling ]
[ groans ]
Ôi...
[ chuckling ]
Thật là...
Điều tra ngầm.
[ ominous music begins ]
[ music building ]
Này!
Ôi, mẹ nó chứ!
Thật là ngớ ngẩn.
Tôi đã phạm một sai lầm ngớ ngẩn.
Thôi quên nó đi.
Vẫn còn hàng trăm đối tượng
giấu mặt ngoài kia.
Sean, tôi có thể tóm tên này.
Điều tệ nhất một kẻ lừa đảo tài
chính có thể làm là để lộ mặt.
Tôi đã đọc báo cáo rồi.
Cao 1.8m, tóc nâu,
27-30 tuổi
nặng 70kg.
Ai cũng có thể như thế được.
Tôi đã nghe giọng hắn, Sean,
tôi đã nhìn thấy mặt hắn.
Hắn không còn gì để giấu nữa.
Hãy cẩn thận.
Anh có 12 năm kinh nghiệm.
Chưa vụ án nào làm anh phải bó tay.
Anh còn gần như viết một quyển sổ
tay về lừa đảo tài chính ngân hàng.
Những cái đó có thể giúp anh
lên làm sếp được đấy.
Chỉ đừng tự đưa mình vào
tình huống kiểu đó thôi.
Tình huống kiểu gì?
Tình huống bị bẽ mặt.
Sean, muốn nghe tôi kể
chuyện cười không?
Chắc chắn rồi.
Cốc, cốc, cốc!
Câu hỏi tiếp theo của cháu là,
khi một phi công nghỉ hưu,
Pan Am sẽ gửi ngân phiếu
cho họ mỗi tháng?
Ừ, chương trình lương hưu xã hội
gửi ngân phiếu định kỳ hàng tháng.
Mỗi ngân phiếu đấy là bao nhiêu?
Cậu nhóc, thực sự bây giờ ta không
muốn trả lời mấy câu hỏi kiểu đấy.
Cái tên bay chực này đang
khiến ta phát điên.
Ai bay chực cơ?
Có một tên khỉ nào đang giả danh là
phi công Pan Am để bay khắp nước Mỹ.
Có một bài báo về hắn đây này.
Ta đã bảo với họ đây không
phải vấn đề của riêng ta.
Tên này không chỉ bay mỗi Pan Am,
hắn còn đi bao nhiêu hãng khác nữa.
Flies United, TWA,
Continental, Eastern...
Kẻ bay chực.
Báo chí rất thích gã này.
Họ gọi hắn là
"James Bond của bầu trời".
[ chuckles ]
Bác vừa nói là...?
Bond, James Bond.
[ "007" theme playing ]
Cho tôi biết, Joan,
sao anh ta lại làm vậy?
Anh ta muốn là người chiến thắng.
Thôi nào.
Chúng ta sẽ hạ cánh trong 20 phút nữa.
Anh muốn chơi nặng hay nhẹ nào?
Đây không phải thuốc an thần nữa đâu.
Mèo Con, cô biết về máy bay
nhiều hơn là về súng nhỉ.
Xin chào, Mèo Con.
Anh chắc đây đúng là
bộ vest đấy chứ?
Chắc chắn rồi.
Đúng y bộ ông ấy mặc trong phim đấy.
Được rồi, tôi lấy 3 bộ.
Xong ngay, ông Fleming.
Bây giờ ông cần thêm một siêu xe
thể thao, đúng mẫu James Bond lái.
[ "007" theme playing ]
[ engine revving ]
[ final "007" chord strikes ]
The look of love
Is in your eyes...
Xin chào.
Chào.
...The look your heart...
Tôi đã từng gặp cô chưa?
...Can't disguise...
Có thể.
Vài năm trước, tôi đã từng
lên bìa tạp chí Seventeen.
Đúng rồi.
Người mẫu Cheryl phải không?
...
Chính xác.
Đàn ông ngày đấy thường
để ảnh cô trong ví.
Cái xe màu bạc đỗ trước
cửa là của anh à?
Ừ, một trong số.
Well, it takes
my breath away...
Vậy cho tôi xin chữ ký được không?
...I can hardly wait
to hold you
Feel my arms around you...
Trong phòng anh có bút không?
...How long I have waited...
[ rhythmic mechanical thumping ]
You've got the look of love
It's on your face
A look that time
can't erase...
Shh.
...Be mine tonight...
Những người như anh có thể mua
bất cứ thứ gì anh ta muốn.
...Let this be
just the start
Of so many nights
like this...
Anh ta mua một bộ bài ở quầy
hàng lưu niệm khách sạn.
...And then seal it
with a kiss...
Cô muốn xem ảo thuật với lá bài à?
...I can hardly wait
to hold you...
Bộ bài này giá bao nhiêu?
...Feel my arms
around you...
55 cent, tôi nghĩ vậy.
...Waited just
to love you...
Vậy nếu họ có bán tôi
ở quầy lưu niệm...
anh sẽ trả bao nhiêu?
Xin lỗi...
Xin lỗi, tôi sẽ trả bao nhiêu
cho cái gì cơ?
[ romantic instrumental music
playing ]
Cả đêm.
Anh sẽ trả tôi bao nhiêu để
có được cả một đêm?
Cheryl, tôi...
tôi thực sự không biết.
...I can hardly wait
to hold you...
Đừng căng thẳng quá.
...How long I have waited...
Hãy cho tôi một đề nghị.
...Now that I have found you
Don't ever go...
300$?
Biến đi.
[ sheepish chuckle ]
500$?
Biến đi.
[ chuckles ]
600$.
[ both chuckling ]
Biến đi.
[ saxophone playing sexy riff ]
1,000$.
Được.
1,000$.
Được thôi.
Đợi tôi một tí.
Từ từ, anh đi đâu đấy?
Xuống dưới kia rút ngân phiếu.
Anh nghĩ khách sạn sẽ cho anh rút
1000$ ngân phiếu vào lúc 3 giờ sáng à?
Ngân phiếu của trung tâm
tài chính New York đấy.
Giá trị còn như vàng.
Họ sẽ cho rút tiền thôi.
Anh không nghĩ liệu
họ sẽ nghi ngờ à?
Đưa tôi xem nào.
Ngân phiếu gốc của nhà băng đấy.
Cho tôi tờ ngân phiếu đấy.
Không thể được.
Tờ ngân phiếu này giá trị 1400$,
chúng ta đã thỏa thuận 1000$.
Thế tôi đưa anh 400$ và
anh đưa tôi tờ giấy đó?
Càng tốt.
The look of love
Is in your eyes...
[ saxophone continues melody ]
Cái này của ai không?
Mele Kalikimaka
is the thing to say...
[ phone ringing ]
On a bright
Hawaiian Christmas Day...
Hanratty nghe đây.
Chúc mừng Giáng Sinh.
Xin chào, Carl.
Xin chào.
...That we send to you,
from the land...
Barry Allen, cơ quan điều tra ngầm.
Tôi đã cố tìm tung tích của ông.
...
Cậu muốn gì?
Tôi muốn xin lỗi vì chuyện
xảy ra ở Los Angeles.
Uh-uh, uh-uh.
Không, không, cậu không
phải xin lỗi tôi.
Lúc nào ông cũng phải làm việc
vào đêm Giáng Sinh à, Carl?
Tôi tình nguyện
làm để những đồng
nghiệp đã có gia đình được về nhà.
Hình như hồi ở Los Angeles
ông có đeo nhẫn cưới.
Tôi tưởng ông đã có gia đình rồi.
Không. Không gia đình.
Cậu muốn nói chuyện với tôi...
hãy gặp nhau mà nói.
Được thôi.
Tôi đang ở khách sạn
Stuyvesant Arms, phòng 3113.
Sáng mai tôi sẽ bay đến Las Vegas
để nghỉ cuối tuần.
Cậu nghĩ lại lừa được tôi nữa à?
Cậu sẽ không đến Vegas.
Cậu không ở khách sạn Stuyvesant Arms.
Cậu muốn tôi điều 20 nhân viên
đến giữa đêm Giáng Sinh,
đạp cửa xông vào phòng để cậu
lại làm bọn tôi bẽ mặt lần nữa.
Rất xin lỗi nếu tôi
đã làm ông bẽ mặt.
Thực sự xin lỗi.
Uh-uh, không.
Không, tôi thực lòng.
Không, sự thật là cậu không
cảm thấy tội nghiệp cho tôi.
Sự thật, tôi đã biết chính là cậu.
Có thể tôi đã không tra còng số 8
vào tay cậu, nhưng tôi biết.
Mọi người chỉ biết được những gì
ông đã nói với họ thôi, Carl.
Thế thì nói cho tôi biết cái này,
Barry Allen, cơ quan điều tra ngầm.
Làm sao cậu biết được tôi sẽ
không nhìn vào ví cậu?
Giống như cách đội Yankees
luôn giành chiến thắng.
Không ai có thể rời mắt khỏi
bộ trang phục bên ngoài.
Đội Yankees thắng vì họ có
Mickey Mantle.
Không ai để ý đến bộ
đồng phục của họ cả.
[ Frank chuckles ]
Ông có chắc điều đấy không, Carl?
Có một điều mà tôi biết chắc.
Rồi cậu sẽ bị tóm.
Cách này hay cách khác, vẫn
là một sự thật hiển nhiên.
Giống như ở Vegas vậy.
Những ông trùm luôn luôn thắng bạc.
Xin lỗi nhé Carl, tôi phải đi rồi.
Cậu không gọi chỉ để
xin lỗi đấy chứ?
[ laughing ]
Ý ông là gì?
Vì cậu không còn ai
để gọi nữa cả.
[ laughing ]
Oh, hô hô.
[ phone bell dings ]
[ guffaws ]
[ humming ]
Morn and night
[ melancholy melody playing ]
[ melody fades ]
Bánh hamburger sẵn sàng chưa?
Có rồi đây.
[ "He's So Fine"
playing on radio ]
- Chào.
- Chào!
Cậu khỏe không?
...Doo-lang, doo-lang,
doo-lang...
The one
with the wavy hair...
Cần thêm càfê không thưa ông?
Ông là nhà sưu tập à?
Sưu tập cái gì?
"Sấm Sét Vũ Trụ", "Cá Lớn",
"Những Kẻ Khổng Lồ".
Cháu có hết mà.
Cháu nói cái gì đấy?
Barry Allen.
Tia Chớp.
Cậu nhóc, đợi đã.
Ý cháu là truyện tranh á?
Vâng, truyện tranh.
Anh ấy không phải là Tia Chớp.
Tên thật anh ấy đấy, Barry Allen.
Cảm ơn cháu.
Nghe rõ đây này:
hắn đọc truyện tranh.
Truyện tranh!
Barry Allen chính là Tia Chớp!
Carl, chậm lại, từ từ nào.
Tôi không hiểu anh đang nói cái gì.
Một thằng nhóc. Đối tượng
của chúng ta là một thằng nhóc.
Vì vậy chúng ta không thể
so mẫu vân tay được.
Vì vậy mới không tìm
được tiền án nào cả.
Bây giờ tôi muốn anh gọi
cho cảnh sát New York,
tìm đủ tất cả những thằng
nhóc bỏ học giữa chừng.
Và đừng quên kiểm tra sân bay.
Nó vẫn tiếp tục bay vòng vòng
khắp cả nước.
Nhưng sao lại là New York?
Đội Yankees!
Nó có nói cái gì đó về đội Yankees!
Đây là nhà thứ bao nhiêu rồi?
[ rings doorbell ]
Số 53, "Abagnahlee."
Chào buổi sáng.
Đặc vụ FBI, chúng tôi
đã gọi trước cho bà.
Tôi đang đợi các anh đây.
Chắc các anh đói lắm rồi.
Tôi có làm món bánh của Sara Lee đấy.
(Sara Lee: nhà phân phối thực phẩm ở Mỹ)
Ông chồng Jack của tôi là luật sư.
Thế còn chồng trước của bà,
ông "Abagnahlee"?
Abagnale, nhưng tôi thích
được gọi là Barnes hơn.
"Frank William Abagnale."
Ở đây ghi là ông ấy
đã từng nhập ngũ.
2 người gặp nhau trong
chiến tranh à?
Vâng, tôi sống ở một ngôi làng
nhỏ ở Pháp, Montrichard...
hẻo lánh đến kiểu chúng tôi chưa
bao giờ nghe đến Sara Lee cả.
Cứ tự nhiên nhé.
"Chẳng ai lại không thích Sara Lee."
Chúng tôi đến để hỏi về một cậu nhóc
bỏ học giữa chừng, Frank Abagnale Jr.
Frankie làm sao vậy?
Bà có biết được rằng cậu ta đã viết
ngân phiếu giả ở ngân hàng Manhattan?
Có chứ.
Cảnh sát cứ nghĩ nó là tội phạm.
Cậu ta đã phạm trọng
tội đấy, bà Barnes.
Nó viết hơn 1000$.
Bọn nhóc tuổi đấy... chúng nghiện
ma túy, ném đá vào cảnh sát.
Tôi sợ hết cả hồn khi tưởng
con trai mình cũng như thế.
Nó mới 17, cái tuổi ăn tuổi ngủ.
...
Chúng tôi hiểu, thưa bà.
Bà còn giữ tấm ảnh nào
của con trai không?
Có đấy, trong quyển sổ
lưu niệm ở trường.
Được rồi.
Được rồi, chúng ta...
chúng ta phải gửi điện báo
khẩn đi toàn sở ngay.
Đối tượng tình nghi là
Frank Abagnale Jr., 17 tuổi.
Frankie có sao không các ông?
Nó đã làm gì à?
Bọn tôi rất tiếc phải thông báo:
con trai bà phạm tội làm giả ngân phiếu.
Giả ngân phiếu á? Đợi đã!
Tôi có thể lo liệu được.
Bây giờ tôi đang làm thêm ở nhà thờ.
Các ông cứ nói số tiền nó đã làm mất,
tôi sẽ trả lại đầy đủ.
1,3 triệu $, tính đến lúc này.
[ timer dings ]
Chào Melanie, khỏe chứ?
Ở trong nhà rồi thì nhớ
dùng gạt tàn nhé.
[ screaming and laughing ]
Yeah, you really
got me goin'
You got me
so I can't sleep at night...
Hi, Melanie, how are you?
When you're in the house,
please, just use an ashtray.
Frank, nước sốt này ngon quá!
Tuyệt vời. Đây, cầm cái này cho tớ.
Tuyệt quá! Tớ thích Moet!
Oh, yeah...
Chào các cô nàng.
You really got me goin'
You got me goin',
got me goin' and goin'...
[ music slows and distorts ]
James, James!
Làm ơn đừng đụng vào dàn
âm thanh, được chứ?
Máy đọc đĩa than đấy.
Cậu không thể xoay nó như vậy được.
Don't ever set me free...
[ drink sloshes ]
Chúa ơi! Terry!
Vải Ý đấy!
Đi đứng cẩn thận chứ!
Chỉ là cái áo thôi mà, anh bạn!
Frank! Lại đây nhanh!
Lance vừa tụt chân vào
cái hố ở ngoài!
Xin lỗi, bệnh nhân Lance
Applebaum ở đâu ạ?
Xin cảm ơn.
Đã cầm mấy cái bình này
là phải dán nhãn ngay.
Cô có biết nó nguy
hiểm thế nào không?
Cô có biết không?
Khóc ít thôi, hứa với tôi cô
sẽ không tái phạm nữa đi.
Bây giờ lau khô quần áo
và tiếp tục làm việc.
Bác sĩ Blair, bác sĩ Blair
Bác sĩ Sherwood Blair.
Này, cô có sao không?
Ông ấy bảo tôi đi lấy mấy bình máu, nhưng
tôi không biết là phải dán nhãn cho chúng.
Không sao đâu
đừng khóc nữa.
Tên cô là gì?
- Brenda.
- Brenda.
Brenda, nếu là tôi thì sẽ
không có gì phải lo cả.
Có phải cứ là bác sĩ thì
biết hết mọi chuyện đâu.
Mới tuần đầu tiên đã thế này
rồi, tôi sợ sẽ bị đuổi việc.
Không ai sẽ đuổi việc cô cả, Brenda.
Tôi cá là cô làm việc rất tốt.
Không, không tốt đâu.
Tôi cá là nếu tôi nhờ cô xem hộ
tình trạng bệnh nhân Lance Applebaum,
cô sẽ làm được trong chớp mắt.
Y tá Fitzsimmons đến phòng hồi sức.
Y tá Fitzsimmons đến phòng hồi sức.
Ừm...
Anh Applebaum bị trật mắt cá chân.
Bác sĩ Ashland đang chữa trị cho
anh ta ở phòng số 7.
Cô thấy chưa? Chẳng có vấn đề gì cả.
Đây là danh sách bệnh nhân cấp cứu.
Anh thấy ngôi sao màu xanh không?
Có nghĩa bệnh nhân đã
được xét nghiệm, chẩn đoán xong.
Sau khi đã chữa khỏi rồi, chúng tôi
khoanh một vòng tròn màu đỏ vào. Thấy chưa?
Cô thấy hàm kẹp răng kia thế nào?
Đeo cũng ổn thôi.
Năm ngoái tôi cũng vừa tháo xong.
Vướng víu, khó chịu kinh khủng.
Bây giờ tôi vẫn phải
đeo bảo vệ hàm.
Anh có hàm răng rất đẹp đấy.
Cảm ơn.
Và cô có nụ cười rất dễ thương.
WOMAN [ over P.A. ]:
Custodial to cafeteria.
[ giggles ]
Không, tôi nói thật đấy.
Bộ kẹp răng đeo vào trông
rất hợp với cô.
Cảm ơn anh.
Không có gì.
Brenda.
Vâng.
Cô biết chỗ này có đang
tuyển người không?
Tôi cũng không chắc lắm.
Anh định làm gì?
Tôi là bác sĩ.
Gửi bố,
Con đã quyết định nghỉ ngơi
khỏi bầu trời một thời gian.
Con nhận công việc ở một bệnh
viện và gặp gỡ rất nhiều người.
Cảm giác được thức dậy mỗi sáng
chính tại nhà mình thật tuyệt.
Ai mà biết được, có thể con còn tìm
được người bạn đời ở đây ấy chứ.
Thủ khoa Y học đại học Havard.
...
Từng là bác sĩ bệnh viện nhi
Nam California.
Một lý lịch đầy ấn tượng đấy,
bác sĩ Conners.
Nhưng rất tiếc, bây giờ chúng tôi chỉ
cần một bác sĩ giám sát khoa cấp cứu...
từ nửa đêm đến 8 giờ sáng, và để
quản lý 6 bác sĩ thực tập và 20 y tá.
Nhưng
tôi nghĩ chắc anh cũng sẽ
thích công việc đấy thôi.
Trước đây các bệnh viện đều để
tôi chọn y tá cho riêng mình.
Connelly?
Harris?
Có đây.
Ashland?
Bác sĩ Conners...
Tối nào anh cũng điểm danh à?
Có đấy, bác sĩ Ashland.
Và nếu có đi muộn thì
chuẩn bị sẵn giấy phép đi.
[ snickering ]
Basmann.
Mace.
Strong.
Đây.
Y tá Brown.
- Y tá sanford?
- Đây.
Bơm côđêin
4 tiếng một lần
huyết thanh 60 giọt/phút
cho đến khi đạt đến lượng cần thiết.
Anh dự đoán
bỏng mức độ nào, Kildare?
Cấp độ 2 và 3, khoảng
20% diện tích cơ thể.
Anh có đồng ý không?
Đồng ý.
Đưa bệnh nhân lên khoa nhi.
Mời y tá Hopp đến
phòng y tá phía Nam.
Mời y tá Hopp đến
phòng y tá phía Nam.
Xin chào, Brenda.
Chào bác sĩ Conners.
Anh phải ký mấy giấy tờ này.
Cảm ơn.
Anh có thấy em khác gì không?
- Cô đã tháo hàm ra!
- Đúng rồi!
Lại đây tôi xem nào.
Em đã cố để anh thấy cả đêm qua!
[ thunder rumbling ]
Oa, làm tốt quá.
Yeah?
Thế lúc tháo ra có đau lắm không?
Tôi tháo xong thấy khác khác.
Em cứ níu níu lưỡi
vào mấy chỗ đấy.
Không ngừng được, cảm giác
nó trơn và nhẹ đi trước.
Thấy tốt hơn rồi chứ?
Vâng, tuyệt hơn nhiều.
[ thunder rumbles ]
Ôi, thật.
Tôi xin lỗi.
[ thunder crashes ]
[ passionate moaning ]
Mời bác sĩ Conners
đến phòng cấp cứu.
Mời bác sĩ Conners
đến phòng cấp cứu.
Anh có nên đi không?
Không, không, không.
Phòng cấp cứu lúc nào
cũng có bác sĩ túc trực.
Sẽ không sao đâu.
Nếu cần phải mổ gấp thì sao?
Em nghĩ anh cần phải đi thật à?
Trong này, bác sĩ Conners.
[ child sobbing ]
[ sobbing ]
Các cậu, vấn đề gì đây nhỉ?
Tai nạn xe đạp.
Xương chày có vết nứt, khoảng
5 inch dưới đầu gối.
Hmm.
- Harris.
- Vâng?
Cậu có đồng ý không?
Đ...Đồng ý cái gì cơ ạ?
Với những gì Ashland vừa nói.
Cậu có đồng ý không?
Vâng, là một tai nạn xe đạp.
Chính cậu bé đã nói với bọn em.
Vậy là cậu đồng ý?
Đồng ý? Dạ...
Em nghĩ ta nên chụp X-ray trước, khâu
[ moans ]
Rất xuất sắc, Ashland.
Rất xuất sắc.
Vậy có vẻ các cậu cũng
không cần tôi lắm.
Tiếp tục đi.
Tó làm hỏng rồi, phải không?
Sao lại không đồng ý nhỉ.
WOMAN [ over P.A. ]:
Dr.Henning, call extension 219.
Dr.Henning, extension 219.
[ vomiting ]
[ distant jackhammer drilling ]
Cứ tự nhiên như ở nhà nhé!
Frank Abagnale Sr.
Anh không phải một tên cớm.
Đặc vụ Hanratty, FBI.
Anh không phải một tên cớm.
Bà chủ nhà đã nói với tôi như thế.
Nếu có định bắt tôi thì
đợi tôi đi thay quần áo đã,
nếu anh không phiền.
Không không, tôi không
đến để bắt ông.
Tôi đến tìm con trai ông,
nó đang gặp rắc rối.
Ông có biết cậu ấy đang ở đâu không?
Tôi sẽ nói, nhưng ông phải hứa
sẽ không cho mẹ nó biết.
Chắc chắn rồi.
Frank đã làm một thẻ căn cước giả
và nhập ngũ vào Thủy Quân Lục Chiến.
Bây giờ nó ở Việt Nam rồi.
Thằng bé đang cách nửa vòng
Trái Đất, lăn lộn trong rừng,
chiến đấu với quân
Cộng Sản. Vì vậy...
[ shuts refrigerator door ]
Xin ông đừng đến đây và gọi
con trai tôi là tội phạm,
vì những gì nó đang làm...
Tôi chưa bao giờ nói con trai
ông là tội phạm, ông Abagnale.
Tôi chỉ nói nó đang
gặp rắc rối thôi.
Nếu ông có suy nghĩ lại và muốn nói
chuyện thì đây, số điện thoại của tôi.
[ pen scribbling ]
Anh chưa từng làm bố, phải không?
Xin lỗi?
Nếu là một người bố thì anh sẽ hiểu.
Tôi sẽ không bao giờ
bỏ rơi con trai mình.
Không bao giờ.
Vâng, tôi hiểu.
Sean, Sean, nghe rõ này:
Chung cư Riverbend, số 415
Landover, Atlanta, Georgia.
Atlanta, Georgia.
Tôi đang trên đường
đến sân bay đây.
Sẽ về đến nơi trong 4 tiếng nữa.
Bye-bye.
Thôi nào, không sao đâu.
[ Brenda sobs ]
Em không việc gì phải khóc cả.
Em xin lỗi.
Em xin lỗi anh, Frank.
Em không thể làm chuyện này được.
Brenda, nghe anh này.
Anh không quan tâm nếu em
vẫn còn trinh, được chứ?
Thật đấy, anh có thể đợi.
Em không còn trinh.
Em đã từng phá thai 2 năm trước.
Một người bạn chơi golf cùng
bố em đã làm chuyện đấy.
Và khi cái thai lớn hơn,
họ đuổi em ra khỏi nhà.
Họ từ con với em vì
em đã phá nó đi.
Này...
Anh rất tiếc.
Xin anh đừng nổi giận với em.
Xin anh đấy, đừng
nổi giận với em.
Không, không.
Xin đừng nổi giận với em.
Thôi nào. Thế bây giờ... anh sẽ
đến nói chuyện với bố mẹ em nhé?
Có thể anh sẽ giúp mọi
chuyện khá hơn được?
Em đã hỏi rất nhiều rồi, lần nào
họ cũng từ chối cho em về nhà.
Và bố em... là một luật sư.
Aw...
Brenda...
Thế nếu em được đính hôn
với một bác sĩ thì sao?
Liệu có thay đổi được gì không?
Gì cơ?
Nếu anh đến gặp bố mẹ...
nói chuyện với bố em...
và hỏi xin phép được
cưới em thì sao?
Căn nhà trống không.
Không có ai cả.
[ classical music playing ]
[ woman laughs ]
Bác sĩ Conners, cháu theo
đạo giáo hội Lu-thơ à?
Vâng, cháu theo đạo Lu-thơ,
nhưng bác cứ gọi cháu là Frank.
Frank, cháu có muốn cầu nguyện
trước bữa ăn không?
Nếu cháu thấy không
thoải mái thì thôi.
Chắc chắn rồi.
[ clears throat ]
2 con chuột cùng
rơi vào một xô kem.
Con thứ nhất bỏ cuộc và
ngay lập tức chết chìm.
Nhưng con thứ hai,
nó cố gắng đến mức
xô kem bị đánh tan dần
và biến thành bơ,
và nó thoát được ra ngoài.
- Amen.
- Amen.
Amen. Lời cầu chúc thật đẹp.
Chú chuột đó đã đánh
tan xô kem thành bơ.
[ sighing happily ]
Đúng vậy.
Tuyệt lắm đấy.
Cảm ơn em.
Frank, cháu đã tìm được bệnh viện nào
để làm việc tại New Orleans chưa?
Nói thật thì, cháu đang tính đến
chuyện quay trở lại nghề luật sư.
Ôi Chúa tôi!
Cháu là bác sĩ hay luật sư thế?
Trước khi học Y thì cháu đã tốt
nghiệp trường luật ở California.
Cháu thực tập nghề luật được 1 năm
thì mới nghĩ đến chuyện làm bác sĩ.
Anh quả là đầy bất ngờ đấy.
Ừ.
Ôi, Chúa tôi.
Một bác sĩ kiêm luật sư.
Phải nói Brenda đào
trúng mỏ rồi đấy.
Cháu đã học trường luật nào?
Berkeley ạ.
[ gasping ]
Berkley, Berkley. Ôi Chúa ơi.
Đấy cũng là trường bố học phải không?
Frank có thể làm ở chỗ
anh được đấy, Roger.
Lúc nào anh cũng kêu ca tìm
trợ lý luật sư khó thế nào mà.
Được không, bố?
Đi mà bố?
Anh ấy đến chỗ bố làm được không?
Thế lúc cháu học ở Berkley, ông thầy
Hollingsworth khó tính có còn dạy không?
Hollingsworth.
[ laughs quietly ]
Đúng. Ông giáo già
Hollingsworth, phải không?
Phải nói là bẩn tính
hơn bao giờ hết.
Thế con chó của ông ta?
Nói cho bác, Frank, tên
con chó của ông ấy là gì?
Cháu xin lỗi, con chó nó chết rồi.
Thật tội nghiệp.
Vâng.
[ women cooing ]
How unfortunate.
Yeah.
Một bác sĩ, một luật sư
theo đạo Lu-thơ...
vậy cậu là gì đây, Frank?
Vì tôi chuẩn bị cho con gái
mình đi cưới chồng,
và tôi có quyền được biết.
Biết cái gì cơ, thưa bác?
Sự thật.
Nói cho tôi sự thật, Frank.
Cậu đang làm gì ở đây?
Một người như cậu đang
làm gì với Brenda?
Nếu cậu muốn con gái tôi, muốn được
cho phép từ tôi
thì hãy nói cho tôi.
Sự thật là, thưa bác...
Sự thật là...
Cháu không phải bác sĩ,
không phải luật sư...
Cháu không phải một phi công.
Sự thật... cháu chẳng là gì.
Cháu chỉ là một thằng nhóc
yêu say đắm con gái bác thôi.
Không.
Cậu biết cậu là gì không?
Một thằng con trai đầy lãng mạn.
Đàn ông chúng ta mà không có người con
gái mình yêu thì cũng chẳng là gì cả.
Nói thật, bác có tội với cái
tính đồng bóng thời trai trẻ.
Bác tìm đến Carol sau
5 lần hẹn với cô ấy
với 2 đồng xu trong túi và những
chỗ thủng lỗ chỗ ở giày,
vì bác biết cô ấy chính là của mình.
Vì vậy cứ tiếp tục đi, Frank.
Đừng sợ.
Hãy hỏi bác câu hỏi cháu
muốn nói khi đến đây.
Thưa bác...
Cháu phải làm gì để được
làm luật ở New Orleans?
[ laughing ]
Không, câu hỏi khác cơ.
[ ticking ]
Ngay sau cái cửa kia.
Chác may mắn nhé anh Conners.
Cảm ơn.
Frank này...
có một điều tôi vẫn
chưa hiểu được.
Cậu đã gian lận kiểu gì trong
kỳ thi luật ở Louisiana đấy?
Sao? Có gì khác à?
Cậu đã nhờ ai đó thi hộ phải không?
Carl, tôi sắp phải vào
tù một thời gian dài.
Thật đấy, có gì khác nào?
Chỉ là một câu hỏi thôi.
Ông định ăn cái bánh kem đấy à?
Ừ, để tí ăn sau.
Cho tôi ăn cùng được không?
Không.
Cho tôi một nửa cái bánh kem
đấy và tôi sẽ cho ông biết.
Sớm muộn gì tôi cũng sẽ biết thôi.
Cậu sẽ làm việc dưới chỉ đạo
của ông Phillip Rigby.
Sao không vào sắp xếp trước
bàn làm việc của mình đi?
Cảm ơn ông.
Chúng ta sẽ ăn trưa lúc 12:30
cùng với thống đốc *** McKeithen.
Chính ông ấy.
Thống đốc.
Bọn tôi đánh vần tên đúng chưa?
Chắc chắn rồi.
Chúc mừng nhé.
Xin cảm ơn.
Chào mừng cậu gia nhập hội.
Bây giờ...
Hãy nhìn vào bức hình này, ông Stewart.
Bức hình chụp Prentice York ở
nơi tìm thấy thi thể của anh ta.
Và đây là hình phóng to
một phần của tấm ảnh.
Đây là bức hình chụp chữ kí
trên tấm ngân phiếu của bị đơn.
Trong một lần giao dịch hỏng.
Đây là hình phóng to
của chữ ký đó,
nó trùng khớp
với chữ ký trên bức thư
anh ta đã gửi cho Simon.
Điều đó mở ra một khả năng
lừa đảo với *** Louisiana.
Thưa quý vị, thưa hội đồng xét xử,
đây là một bằng chứng không thể chối
cãi, cho thấy bị đơn đang nói dối.
[ echoing thud ]
[ chair slams against floor ]
Anh Conners, đây là một
buổi tranh luận sơ khảo.
Trong này không có... bị đơn nào.
Không có... hội đồng xét xử nào.
Chỉ có mình tôi.
Cậu nhóc...
chuyện quái gì với cậu thế?!
Có phải Mitch đấy không?
Roger! Chương trình của Mitch!
Ôi Chúa tôi, lâu lắm
rồi anh không xem.
Khách mời trong chương trình
hôm nay của chúng ta,
dàn hợp xướng từ nhà thờ
Monica, New York.
...
Chúng ta hãy cùng đồng ca với họ qua
những bài hát của người Ai-len nào!
Có ai thấy Kelly không?
K, E, 2 chữ L, Y
Có ai thấy Kelly không?
Có ai thấy cậu ấy cười chưa?
Cậu ấy tóc đỏ,
cậu ấy mắt xanh
Cậu ấy là người Ai-len chúng ta
Có ai thấy Kelly không?
Kelly từ đảo quốc Ai-len xinh đẹp.
Có ai thấy Kelly không?
K, E, 2 chữ L, Y
Có ai thấy Kelly không?
Có ai thấy cậu ấy cười chưa?
Cậu ấy tóc đỏ,
cậu ấy mắt xanh
Cậu ấy là người Ai-len chúng ta
Có ai thấy Kelly không...
JUDY GARLAND [ on record ]:
Embrace me
My sweet embraceable you
Embrace me
You irreplaceable you
Just one look at you
My heart grew tipsy in me
You and you alone
Bring out the gypsy in me
I love all
The many charms about you
Above all
I want my arms about you...
Bố.
...Don't be
a naughty baby...
Con đang làm gì ở đây?
Con đến để gặp bố.
...My sweet embraceable...
Bố mặc thế này làm gì thế?
Bố đã nhận việc mới.
Làm cho chính phủ.
Thấy bố đang làm gì không?
Con có kiếm được luật sư tốt không?
Bây giờ con cũng là
một dạng luật sư.
Đọc lá thư này đi.
Bọn thuế muốn nhiều hơn nữa.
Bố đã phải chịu 2 tội rồi.
Họ đã được voi còn đòi tiên.
Bố muốn kiện họ.
Giờ còn muốn nhiều hơn nữa.
Họ... Đây, con ngồi xuống đây.
Họ đã cố đe dọa, đuổi riết bố.
Nhưng con biết không?
Con biết không?
Bố sẽ bắt họ tiếp tục theo đuổi...
cho đến hết đời thì thôi.
Con rất vui được gặp bố.
Ngồi xuống đã, con muốn
cho bố xem một thứ.
Con đến đây là để đưa
cho bố cái này.
Thiếp mời đến một buổi đính hôn.
Bố, con sắp cưới vợ rồi.
Bố có tin được không?
Con sắp cưới vợ!
Bây giờ bố không phải
lo lắng gì nữa.
Con sẽ mua một chiếc
Cadillac mới nguyên.
Con sẽ xây một ngôi nhà 60.000$.
Con sẽ lấy lại tất cả.
Tất cả các trang sức, đồ đạc,
tất cả mọi thứ.
Tất cả những gì họ đã lấy đi của
ta, giờ con sẽ lấy lại hết.
Thế mẹ...
đã thấy bố trong bộ
đồng phục này chưa?
Ừ, bà ấy có qua lấy mấy cái hộp.
Thế là tốt rồi, tốt rồi.
Bố biết sao không?
Vì mẹ cũng sẽ đi dự đám cưới
cùng chúng ta.
Con sẽ mua cho bố
một bộ vest mới.
Một bộ vest mới nguyên.
Một bộ Manhattan Eagle 3 cúc,
màu ngọc trai đen.
Trông bố sẽ rất tuyệt.
Đẹp lắm đấy. Nhưng bà ấy
sẽ không gặp bố đâu.
Bố đã thử gọi cho mẹ chưa?
Rồi.
Sao bố không gọi ngay bây giờ đi?
Bố gọi ngay bây giờ đi! Đây.
Bố, gọi mẹ đi.
Hãy gọi vì con.
Hãy gọi và gửi mẹ vé mời đặc biệt
đến dự đám cưới của con trai bà.
Mẹ con đã cưới một người bạn
của bố, ông Jack Barnes.
Họ có một ngôi nhà ở Long Island.
Bố bị một nhân viên FBI đến gặp.
Con có số điện thoại của họ mà.
Trông ông ta rất sợ sệt.
Chính phủ Hoa Kỳ,
họ luôn đuổi theo nhà mình.
Bùm! Hãy bay lên mặt trăng!
Bố... mọi chuyện kết thúc rồi.
Con sẽ ngừng hết lại ngay bây giờ.
Nhưng con đã...
Họ sẽ không bao giờ bắt
được con đâu, Frank.
- Bố, mẹ sẽ không làm vậy đâu.
- Ngồi xuống đi đã, Frank.
- Sao mẹ lại làm thế với bố được.
- Ngồi xuống đã nào.
Ngồi xuống, uống nước với bố đã.
Bố là bố con đấy.
Thế thì hãy bảo con ngừng lại đi.
Bảo con ngừng lại đi.
Con không thể ngừng lại.
Con đi đâu đấy?
Frank, con đi đâu vậy?
Con đi đâu đấy?
Tối nay con định đi đâu?
Ra nước ngoài à?
Tối nay con định đi đâu?
Tahiti hay Hawaii?
[ phone ringing ]
Hanratty nghe đây.
Xin chào Carl.
Chúc mừng Giáng Sinh.
Khỏe chứ, bác sĩ Conners?
Carl, tôi không còn là bác sĩ
COnners suốt mấy tháng nay rồi.
[ Hanratty sniffles,
clears throat ]
Bây giờ là đêm Giáng Sinh, tôi
đang ngồi ở văn phòng của mình.
Cậu muốn gì?
[ instrumental version "I'll Be
Home for Christmas" playing ]
Được rồi.
Tôi muốn kết thúc mọi chuyện.
Tôi muốn kết thúc hết.
Tôi chuẩn bị lập gia đình.
Ông biết đấy, ổn định cuộc sống.
Cậu đã lấy cắp hơn 4 triệu $.
Cậu nghĩ chúng tôi sẽ tha cho
cậu để làm quà cưới à?
Cậu không thể bỏ qua những gì mình
đã làm dễ dàng như vậy đâu, Frank.
Tôi muốn các anh ngừng lại.
Không ngừng lại.
Cậu sẽ bị tóm,
cậu sẽ phải vào tù.
Cậu nghĩ chuyện này rồi
sẽ đi đến đâu?
Xin anh để cho tôi yên được không, Carl.
Tôi xin anh đấy?
Tôi đến gần lắm rồi, phải không?
Cậu đang sợ vì tôi đang
gần đạt được rồi.
Tôi biết. Cậu đã ở khách sạn Lake Charles,
thuê xe ở Shreveport, đều ở Louisiana.
Nếu cậu muốn chạy trốn
thì cứ tự nhiên.
Những tấm ngân phiếu không
biết nói dối như cậu đâu.
Đừng đuổi theo tôi nữa.
Tôi không thể dừng được.
Đó là công việc của tôi.
Không sao đâu, Carl.
Tôi cũng nghĩ là
mình sẽ hỏi như vậy.
Này, chúc mừng Giáng Sinh nhé.
[ click and dial tone ]
Tôi yêu công việc của mình quá.
Được rồi...
Hãy lục tìm tất cả những tờ báo
ở Louisiana trong 2 tháng vừa qua.
Tìm cái gì cơ?
Thông báo đính hôn, dưới tên Conners.
Conners?! Thôi nào Carl, chắc chắn từ
đấy đến giờ hắn đã thay tên đổi họ rồi.
Hắn không thể đổi tên được.
Cô gái kia nghĩ hắn là Conners.
Hắn mà mất cái tên là
cũng mất luôn bạn gái.
I can't give you anything
But love, baby
That's the only thing
I have plenty of
Baby
Dreamin' a while,
schemin' a while...
- Chúc mừng nhé.
- Anh đến vui vẻ chứ?
...You're sure to find
- Hạnh phúc nhé.
- Cứ nhảy đi các bạn.
All those things
you've always pined for...
- Ôi!
- Xin chào.
Xin chào, cảm ơn nhé.
Tôi phải ra phòng con trai một chút.
- Được thôi.
- Chào nhé.
Nhanh lên nào.
[ car approaching ]
[ brakes squeaking ]
Xin chào.
Tôi là đặc vụ Hanratty,
chúng tôi là FBI.
Chúng tôi muốn được nói
chuyện với chủ bữa tiệc.
Để tôi gọi ông ấy.
Họ ở đây.
- Chào Roger, khỏe chứ?
- Chào Vin.
Xin chào các quý ông,
tôi là Roger Strong.
Carl Hanratty, FBI.
Đây là đặc vụ Amdursky và Fox.
Bọn tôi rất tiếc phải chen
ngang bữa tiệc của ông.
Khôn sao đâu.
Tôi giúp gì được các anh?
Nếu không có gì phiền lắm,
bọn tôi muốn được gặp chú rể.
Có vấn đề gì à?
Frank! Frank!
Anh cầm hết mấy cái này được không?
Được. Lại đây.
Ngân phiếu, bạn bố em mừng đấy.
Tất cá là cho chúng ta, để mình
có thể bắt đầu cuộc sống mới!
Anh làm gì thế?
Có chuyện gì à?
Chúng ta phải đi ngay.
Gì cơ?!
Brenda, em yêu anh, phải không?
Vâng.
Em vẫn yêu anh, dù bất cứ
chuyện gì xảy ra phải không?
Vâng.
Em vẫn yêu anh, cho dù anh
có giàu hay nghèo đến đâu,
hay kể cả anh có một cái tên khác.
Frank, anh kiếm từng ấy
tiền đâu ra vậy?
Brenda, nghe này.
Một cái tên, được chứ?
Một cái tên, sẽ chẳng
ảnh hưởng gì cả.
Tên anh là Frank Conners, phải không?
- Với em, anh là vậy.
- Vâng.
Nhưng chúng ta đều có những bí mật.
Thỉnh thoảng khi đi du lịch, anh dùng cái
tên Frank Taylor. Đấy là bí mật của anh.
- Frank Taylor?!
- Đúng, Frank Taylor!
- Frank Black.
- Frank Black?!
Ừ, cũng chả ảnh hưởng gì.
Anh nói tất cả chuyện này làm gì?
Brenda... Brenda, anh không
muốn dối trá với em nữa.
Rõ chưa? Anh không phải bác sĩ.
Anh chưa bao giờ học trường Y cả.
Anh chưa từng học Harvard, chưa từng
là luật sư hay Lu-thơ gì cả.
Brenda, 1 năm rưỡi trước anh đã
bỏ nhà ra đi khi mới 16.
Frank...
Frank?
Anh không theo đạo Lu-thơ?
Brenda... em thấy tất cả
số tiền này không?
Em thấy tất cả số tiền này không?
Anh còn có nhiều hơn.
Anh có rất nhiều hơn thế này.
Anh có đủ tiền cho chúng ta
sống hạnh phúc đến hết đời.
Coi này.
Frank, đừng làm em sợ nữa.
Anh là Frank Conners.
Anh Frank Conners, một người
đàn ông 28 tuổi và...
Brenda...
Sao anh lại nói dối em?
- Brenda, Brenda...
- Em muốn biết tên thật của anh.
- Nghe anh đi, Brenda.
- Nói cho em tên thật của anh.
Chúng ta có thể sống ở bất cứ đâu
mình muốn, nhưng em phải tin anh.
- Em có tin anh không?
- Có ạ.
- Em có yêu anh không, Brenda?
- Có.
- Có yêu anh không?
- Có.
Bà nó ơi.
Em yêu, đây là ông Hanratty.
Vợ tôi, Carol
- Ôi, chào anh...
- Hanratty, thưa bà.
- Ratty.
- Vâng.
Bà có thấy Frank hay Brenda không?
Hình như bọn nó lên trên lầu rồi.
Frank...
Brenda, lại đây.
Trong 2 ngày nữa, em sẽ gặp anh
ở Sân Bay Quốc Tế Miami, được chứ?
Em sẽ ra khỏi nhà sau
khi bố mẹ đã ngủ rồi.
Ra ngoài bắt taxi, đưa cho
tài xế tất cả số tiền này
và bảo anh ta lái xe suốt cả đêm.
Brenda, em sẽ phải đến
vào lúc 10 giờ sáng.
- 10 giờ sáng, được chứ?
- Nhưng...
[ scatting ]
I never stop
Till I get to the top...
[ jazz continues in distance ]
Phòng nào, thưa ông?
Ở trong góc ấy.
Em phải nghe lời anh, được chứ?
Sân Bay Quốc Tế Miami,
rõ chưa? Hãy nói đi.
Sân Bay Quốc Tế Miami.
- Dù bất cứ chuyện gì...
- Dù bất cứ chuyện gì...
- Em sẽ bắt một chiếc taxi.
- Em sẽ bắt taxi.
Em sẽ đến đấy vào lúc 10 giờ sáng.
Dù bất kể chuyện gì, em sẽ
đến đấy vào 10 giờ sáng.
- Trong 2 ngày.
- Trong 2 ngày.
2 ngày, Brenda. 2 ngày.
Trong 2 ngày, bất kể ra sao, em
sẽ đến đấy vào lúc 10 giờ sáng.
Em sẽ không nói với ai cả, Brenda.
Hãy hứa với anh, ngay bây giờ.
Frank, đi mà!
Trước khi đi, hãy cho em
biết tên thật của anh.
Xin anh đấy.
Frank William Abagnale Jr.
[ ominous music playing ]
[ light, childlike theme plays ]
[ wind blowing ]
[ ominous theme building ]
[ childlike theme returns ]
[ shuddering ]
WOMAN [ over P.A. ]:
National Airlines
Hãng hàng không quốc gia thông báo,
chuyến bay 27 bay đến Florida
và New York chuẩn bị
cất cánh ở cổng số...
Taxi!
[ announcements continue
indistinctly over P.A. ]
Xin hãy chú ý...
[ sighing ]
Brenda.
Tên này cũng không phải dạng đùa.
Chắc hắn đã tính trước được chúng ta.
Có thể hắn bị tắc đường.
Hôm nay không đến thì
ngày mai hắn sẽ đến.
Hắn sẽ bị tóm trước khi
kịp rời khỏi nước Mỹ.
Hắn không có hộ chiếu đâu.
6 tháng vừa qua hắn đã là
sinh viên Harvard và Berkeley.
Tôi cá là hắn cũng có ít
nhất một cái hộ chiếu.
Vậy tất cả người của chúng ta
đều tập trung ở sân bay Miami.
Hắn đã quen chuyện này rồi.
Hắn biết trước tất cả.
Tôi đã nói chuyện với
cảnh sát Miami,
họ sẽ cho chúng ta 50 bộ
đồng phục và 25 nhân viên.
Cộng thêm chúng ta nữa là
gần 100 người ở sân bay.
Anh có nghĩ chúng ta
nên tản đều ra không?
Không, đây là lối ra duy nhất.
Thế làm sao anh biết được
liệu hắn đã thuê một cái xe
và chuồn đến New York,
Atlanta rồi hay không?
Vì bây giờ tôi không ở New York.
I'm not in Atlanta.
Vâng, Frank Roberts đây,
tôi muốn thông báo cho tất cả
trường đại học là hãng Pan Am
đang có đợt tuyển dụng mới năm nay.
Sáng mai tôi sẽ ghé qua
ký túc xá của trường.
Cảm ơn các bạn đã đến.
Đến cuối ngày hôm nay, tôi sẽ
chọn ra 8 người trong các bạn...
[ cheering and laughter ]
...để tham gia vào chương trình
tiếp viên tương lai cho Pan Am.
8 cô gái này sẽ cùng tôi đi vòng
quanh châu Âu trong 2 tháng.
[ women squealing ]
Họ sẽ được học những kĩ năng cơ bản
để trở thành tiếp viên cho Pan Am.
[ cheering ]
Đặt cho tôi ít nhất là 2 người...
Thôi, một người mỗi hai cửa vé.
- Được rồi.
- Rõ chưa?
Amdursky?
Sao?
Hãy chắc chắn là lính của anh đã
kiểm soát hết vỉa hè và lối ra đi.
Bây giờ... Luân phiên gác
quanh cổng ra vào.
Anh bên này.
Tại sao em nghĩ mình có thể trở
thành một tiếp viên tương lai á?
Ừm, vì em rất thân thiện, và có thể giúp
mọi người thấy thoải mái trên máy bay...
...
Chúng ta sẽ di chuyển với tốc độ
6000 dặm/h, ở độ cao 1000m...
Hành lý của em đã đầy đủ,
em đã sẵn sàng đi.
[ playing dramatic piano intro ]
Ilene Anderson.
[ squealing and applause ]
[ pianist playing
"Come Fly With Me" ]
Miggy Acker.
[ excited squealing ]
Debra Jo McMillan.
Candy Heston.
Bay cùng anh nào, hãy bay đi thật xa
Em có bao giờ thích rượu ngoại,
Quán rượu Bombay luôn chờ đợi em
Bay cùng anh nào, hãy bay đi thật xa
Bay cùng anh nào, hãy bay đến Peru
Vùng đất Ilama với những nhạc sĩ,
họ sẽ thổi sáo cho em nghe
[ appreciative whistle ]
Bay cùng anh nào...
Xin chào.
...Hãy thả mình giữa bầu trời.
Rồi em sẽ lên nơi đó,
nơi chỉ có không khí trong lành,
[ wolf whistle ]
và có anh và em.
Khi em đã lên nơi đó...
Cậu thấy con bé tóc vàng hàng đầu không?
Đáng lẽ tớ phải làm phi công.
Chuẩn.
Ông Carl Hanratty, xin hãy nghe
chiếc điện thoại đang rinh.
Hanratty đây.
Carl, chiến thuật biển người
của anh không có tác dụng rồi.
Có một gã mặc đồng phục Pan Am trong chiếc
Coupe DeVille ngay trước cổng sân bay.
Đấy chỉ là cổng phụ thôi.
Anh đã nhìn mặt hắn chưa?
Hắn đội mũ phi công sùm sụp.
Carl, tôi nghĩ chính là hắn đấy!
...những con chim sẽ dạt
đường cho chúng ta đi...
Bay xuống vịnh Acapulco...
[ siren blaring ]
Tránh ra, tránh ra, tránh ra!
...những kỳ nghỉ ở những vùng
đất khác thật tuyệt vời...
[ agents shouting ]
Ra khỏi xe ngay, Frank.
[ patrol cars' tires squealing ]
Frank?!
Bước ra khỏi xe ngay!
Để tay ra chỗ nào tôi
có thể nhìn được.
Đừng bắn! Tôi chỉ
là tài xế lái xe.
Một người đã trả tôi 100$ để mặc
bộ này và ra đón ai đó ở sân bay.
Anh bảo đón ai cơ?
Này!
Hành lý đã sẵn sàng,
hãy cùng bay xa nào.
[ engine roaring ]
Nam Mỹ, Úc...
Singapore, Ai Cập.
Thằng nhóc này điên thật rồi.
Tại sao tôi lại không biết?
Không ai biết cả, thưa ông.
Các ngân hàng đều không biết chuyện
gì đang xảy ra cho đến tuần vừa rồi.
Không thể nào.
Họ không báo vì tất cả đều hợp lệ.
- Bây giờ là khác rồi.
- Hắn đang làm gì?
Hắn đang sử dụng ngân phiếu thật.
Mấy cái này hoàn hảo đến mức các hãng
hàng không không nhận ra sự khác biệt.
Ngân phiếu cuối cùng được
sử dụng ở Madrid tuần trước.
Có lẽ hắn vẫn còn ở đấy.
Chúng ta phải đi ngay, thưa ông.
Đi ngay.
Đi đâu?
Tây Ban Nha? Anh muốn
đến Tây Ban Nha á?
Cuối cùng thì hắn cũng sẽ phải quay trở
lại nơi các tấm ngân phiếu được in thôi.
Tôi nghĩ đó là lý do hắn
đang đi vòng quanh châu Âu.
Nhìn vào bản đồ đi, thưa ông.
Hắn đang tạo thành một vòng tròn.
Hắn đang hết dần ngân phiếu rồi.
Tôi cũng biết là rất xa,
nhưng nếu theo dấu từ Madrid,
chúng ta vẫn có thể tóm được hắn.
Xin lỗi nhé Carl, anh đã
không bắt được hắn ở đây,
anh cũng sẽ không
bắt được hắn ở đó.
Nhưng chúng ta không thể
để hắn chạy thoát được.
Không, Carl, chính anh
đã để hắn chạy thoát.
[ tapping map ]
Một mẫu in hoàn hảo
từ đầu đến cuối.
Hmm!
Màu sắc tách bạch rõ
nét đến kinh ngạc.
Không có chỗ nào bị nhòe cả.
Không ai trên nước Mỹ
có thể làm được thế này.
Không ai trừ chúng tôi.
Nó đã được in ở đâu?
Nó được in bởi một
cái máy quái vật...
Một chiếc quái vật.
...dòng Heidelberg, Istra...
Heidelberg.
...máy in 4 màu, to như khủng long.
Anh có thể cảm nhận
được sức nặng của nó.
2 tấn, chưa nạp mực.
[ inhales, clears throat ]
Nơi nào có thể in được như thế này?
Anh, Pháp, Đức...
Pháp!
Pháp.
Mẹ của Frank đã nói về một ngôi
làng ở Pháp mà không có Sara Lee.
The village where
she met Frank's father.
Đúng rồi, tôi cũng không nhớ rõ lắm...
Bắt đầu bằng chữ M ấy.
"Mont" gì gì đó.
"Mont.". Anh Fox?
Đây, đây.
Câu hỏi: "2 người gặp nhau
trong chiến tranh à?"
Trả lời: "Vâng, tôi sống ở một ngôi
làng nhỏ ở Pháp, hẻo lánh đến kiểu..."
Đúng rồi.
"The kind of place where
they never heard of Sara Lee."
Đừng nói với tôi là anh đã quên
ghi tên ngôi làng đấy nhé, Fox.
Montrichard.
CHORUS [ in distance ]:
Laeti triumphantes
Venite, venite
In Bethlehem
Natum videte
Regem angelorum
Venite adoremus,
Venite adoremus
Venite...
[ rhythmic clattering ]
[ bell ringing ]
[ thumping and fluttering ]
[ clattering slows ]
Carl?
Carl!
Chúc mừng Giáng Sinh!
Sao lúc nào chúng ta cũng gặp nhau
đúng vào Giáng Sinh thế nhỉ, Carl?
Lúc nào cũng Giáng Sinh,
tôi và ông!
[ laughing ]
Mặc áo vào đi, Frank.
Cậu đã bị bắt.
Carl, ông có đói không?
Muốn ăn chút gì không?
Bánh ngọt Pháp ở đây tuyệt lắm.
Here, give these a try.
Có cả một trung đội cảnh
sát Pháp ở ngoài kia.
Bánh ngon lắm Carl,
tôi nói thật đấy.
Họ muốn tự mình bắt cậu
You want a bite?
nhưng phải nhờ đến đặc nhiệm Hoa Kỳ.
Ông có đói không?
Nhưng tôi đã thỏa thuận là sẽ chỉ giúp họ
nếu tôi được tự mình bắt và dẫn cậu về.
Ông có súng không?
Có súng không?
- Không có?
- Không.
Không có súng.
Và ông đang nói với
tôi cái gì ấy nhỉ?
There's, uh,
there's uh... [ chuckles ]
Có một trung đội cảnh sát
Pháp chờ ở ngoài kia,
ngay giữa đêm Giáng Sinh bây giờ?
Ông đang bảo tôi như thế à?
Đúng.
Được rồi, được rồi.
Ở đây không có cái cửa sổ nào.
Tôi sẽ ra cửa chính nhìn xem sao.
Không! Không!
Tôi đã nói với họ là sẽ
bước ra trước làm tín hiệu.
Đây, cậu có thể tự mình đeo vào.
Không, tôi sẽ không làm thế!
Tôi sẽ không làm thế.
Ông biết sao không?
[ panting ]
Vì tôi nghĩ ông là một
tay bịp bợm tệ hại.
Tôi không nghĩ là có
ai ngoài kia cả.
Chỉ có tôi và ông thôi.
Đúng thế.
Tôi nghĩ chỉ có 2 chúng ta,
và ông biết sao không?
Ông sẽ phải tự đi mà bắt lấy tôi!
Tôi... Chúng ta không có thời
gian cho mấy trò này đâu.
Thế là tốt, thế là tốt.
Ông nghĩ tôi sẽ ra và
nhìn thấy cái gì hả?
Tôi không nói dối cậu đâu.
Nhìn đi, ông đang đeo nhẫn cưới.
Carl, ông đang đeo nhẫn cưới đấy!
Ông đã từng nói dối
tôi về chuyện đấy!
Ông đã nói dối phải không?!
Cậu đã hỏi tôi có gia đình không.
Tôi đã từng, nhưng không còn nữa.
[ phone ringing ]
[ anxious breathing ]
[ ringing continues ]
Alô? Không, không
có vấn đề gì cả.
Bọn tôi sẽ ra ngay bây giờ đây.
[ laughing ]
Hay lắm, hay lắm đấy.
Ông lại nhờ một thằng ất ơ
nào gọi đến giùm, phải không?
Cảnh sát trưởng Luc đấy.
Tôi có một phút để đưa cậu ra.
Cảnh sát trưởng Luc?
Cảnh sát trưởng Luc!
Ôi, cảnh sát trưởng Luc.
Carl, phải nói là cái tên đấy
cũng làm tôi nổi da gà đấy,
nhưng tôi đã nói rồi, có lẽ...
chỉ có tôi và ông ở đây thôi.
Vì vậy ông sẽ phải tự mình bắt tôi.
Frank. Frank!
Lần này cậu phải tin tôi!
Frank, những người này
đã bị cậu làm bẽ mặt.
Họ đang rất tức giận.
Cậu sống trên đất nước họ,
cậu ăn trộm tiền của họ.
Tôi đã bảo với cậu chuyện
này rồi sẽ xảy ra mà,
dù thế nào đi nữa nó cũng
sẽ phải kết thúc thôi.
Đừng làm trò gì ngu ngốc!
Hay lắm.
Hay lắm đấy, Carl,
ông có biết không?
Cứ tiếp tục với câu chuyện
bịa đặt của ông đi.
Cứ tiếp tục đến khi ông
biến nó thành sự thật.
Cậu sẽ chết đấy!
Bước ra khỏi cánh cửa đó là
họ sẽ giết chết cậu ngay.
[ panting ]
Đấy là sự thật?
Đúng.
Ông có con không, Carl?
Một cô con gái 4 tuổi.
Ông có thề trước con gái mình không?
Ông có thề không?
Thề không?
[ handcuffs clacking ]
CHORUS:
Redit ce chant melodieux
Gloria
In excelsius Deo
Gloria...
Hay lắm đấy, Carl.
[ car approaching ]
[ sirens blaring ]
[ chorus continues singing ]
[ tires screeching ]
[ officer shouting in French ]
Tôi đã khống chế được hắn rồi.
Tôi bắt được hắn rồi.
Hắn đã bị bắt! Không sao đâu!
[ shouting continues ]
Không sao đâu!
Tôi bắt được hắn rồi!
[ speaking in French ]
[ officer shouting excitedly ]
Này, tôi muốn các anh
ghi trong hồ sơ:
Frank Abagnale đã
tự giơ tay đầu hàng.
Các anh hiểu chứ? Hiểu chứ?
Các anh đưa cậu ta đi đâu đấy?
[ speaking in French ]
Tôi phải được đi cùng chứ.
Các anh đưa cậu ta đi đâu?
Cho tôi vào...
Cho tôi vào xe!
[ shouting continues ]
Này! Cho tôi vào xe!
Gloria...
[ engine starts ]
Đừng lo, Frank!
Tôi sẽ dẫn độ cậu về lại Mỹ.
Đừng lo!
[ siren wailing ]
Gloria
In excelsius Deo.
Carl này...
Carl, khi chúng ta hạ cánh, ông
nhớ cho tôi gọi điện cho bố.
Tôi chỉ muốn được nói chuyện với bố
trước khi phải lên TV với bộ dạng này.
Nhìn này Carl.
Chúng ta đến LaGuardia rồi kìa.
Quốc lộ 4-4 đấy.
Frank, cha cậu đã qua đời.
Tôi rất tiếc.
Tôi không muốn cậu biết đến
khi chúng ta đã về nhà.
Ông ấy đã trượt cầu thang khi
đang cố bắt tàu ở Nhà Ga Lớn.
Tôi rất tiếc phải cho
cậu biết chuyện đấy.
Ông đang nói dối phải không?
Ông đã hứa tôi sẽ được
nói chuyện với bố.
Carl, ông nghĩ ông là ai mà
dám nói với tôi như vậy chứ?
Sao ông dám nói với
tôi như vậy chứ?
Ông đã nói tôi có thể
nói chuyện với bố.
Ông ấy đã trượt chân
ngã và gãy cổ.
Tôi rất tiếc.
Tôi thực sự rất tiếc.
[ panting ]
[ hits seat ]
Mẹ nó chứ!
Carl, tôi phát bệnh mất thôi!
Không sao cả.
Không sao cả, không có gì đâu.
Carl, tôi phải vào phòng vệ sinh.
Tôi phát bệnh mất.
Được thôi, vào phòng
vệ sinh đi.
[ panting ]
Con mẹ nó!
[ sobbing ]
[ pounding ]
[ murmuring ]
[ panting ]
[ panting slows ]
[ Frank panting ]
Bố ơi...!
Các anh sẽ phải về chỗ ngồi.
Tôi đã thông báo rồi,
chúng ta sắp hạ cánh.
- Xin lỗi nhé.
- Tất cả các anh.
Frank! Ra ngoài đi.
- Frank?
- Chúng ta sẽ hạ cánh trong 6 phút.
Tất cả hành khách phải
giữ nguyên chỗ ngồi
- và thắt dây an toàn.
- Frank, mở cửa ra!
Frank!
- Anh làm đi.
- Được rồi.
[ engines decelerating ]
[ grunting ]
[ frustrated sigh ]
[ grunting ]
Frank! Frank!
[ engines roaring ]
[ tires squealing ]
Tất cả mọi người hãy
giữ nguyên chỗ ngồi.
FBI đây. Tất cả ngồi yên.
[ engines whining ]
Xin hãy ngồi yên!
Mọi người phải ngồi yên cho đến
khi máy bay đã dừng hoàn toàn.
Ôi Chúa tôi.
NAT KING COLE:
Chestnuts roasting
on an open fire...
[ panting ]
Jack Frost nipping
at your nose
Yuletide carols
being sung by a choir
And folks dressed up
like Eskimos
Everybody knows
A turkey and some mistletoe
Help to make
the season bright
[ quietly blowing notes ]
Tiny tots with their eyes
all aglow
Will find it hard
to sleep tonight...
Tên em là gì?
[ blows note ]
They know that Santa's
on his way...
Mẹ em đâu?
...He's loaded lots of toys
and goodies on his sleigh
[ blows note ]
And every mother's child
is gonna spy
To see if reindeer
really know how to fly...
[ brakes squeaking ]
And so I'm offering
this simple phrase...
[ men shouting indistinctly ]
To kids from one to 92
Although it's been said
many times
Many ways:
"Merry Christmas..."
Đặt 2 tay lên gáy!
...To you.
Carl, cho tôi vào
trong xe nhanh lên.
Cho tôi vào trong xe.
Đưa cậu ta vào.
[ piano playing interlude
in "The Christmas Song" ]
[ handcuffs latching ]
Dựa trên mức độ nghiêm trọng
các tội trạng của bị cáo,
thường xuyên nghĩ
đến việc chạy trốn,
và sự coi thường luật pháp
của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ,
tòa bác đơn xin giảm hình phạt vì chưa
đến tuổi trưởng thành của bị cáo,
và tuyên phạt 12 năm tù tại trại giam
bảo vệ nghiêm ngặt nhất Atlanta,
và yêu cầu phạm nhân phải bị biệt giam
trong suốt quá trình thi hành án.
..."Merry Christmas to you."
[ song ends with guitar playing
"Jingle Bells" riff ]
Use that door over there.
[ phone ringing ]
[ indistinct voices ]
PRISONER:
...and give everyone my love.
I think about them all the time.
[ indistinct conversations
in distance ]
[ sighs deeply ]
Chúc mừng Giáng Sinh, Frank.
Tôi có mang truyện tranh cho cậu đây.
Con gái ông thế nào rồi?
Tên con bé là gì?
Grace.
Tôi cũng không rõ lắm.
Grace sống với mẹ ở Chicago,
và tôi cũng ít khi đến thăm nó.
Ông mang gì trong vali thế?
Tôi đang trên đường đến sân bay.
Là một tên lừa đảo ngân phiếu,
hắn đang đến Minnesota.
[ chuckling ]
Hắn khiến bọn tôi phát điên.
Ông có mang tờ ngân
phiếu nào không?
Có, có một tờ hắn đã làm giả ở
trung tâm tài chính Great Lakes.
Thấy không, hắn chỉ dùng một bản
in kẽm và một cái bút màu thông.
Đúng, là một người
thu ngân ở ngân hàng.
Cậu nói lại đi?
Chắc chắn là một người thu ngân, Carl.
Chỉ có ngân hàng mới dùng dấu viết
tay để ghi ngày tháng, thấy chưa.
Họ dùng đi dùng lại
nên mực bị mòn dần,
khiến các con số cũng
bắt đầu mờ đi.
Trong này thì số 6 và số 9...
bị mờ đầu tiên.
Cảm ơn nhé.
[ buzzer sounding ]
Tôi muốn cậu
xem qua cái này.
Cho tôi biết cậu nghĩ gì.
[ clears throat ]
Đồ giả.
How do you know?
Cậu thậm chí còn chưa nhìn vào nó?
Không có cạnh răng
cưa nào, đúng không?
Ý tôi là, nó được cắt thủ công
bằng tay, không phải bằng máy.
Đúng rồi...
Giấy in được ghép 2 lần, quá nặng
để làm một tấm ngân phiếu thật.
Mực nổi thay vì mực ép, tôi
có thể cảm nhận bằng ngón tay.
[ sniffing ]
Và mùi mực không giống
với loại chính thống.
Nó như kiểu một loại mực tàu,
loại mực có thể mua được
ngoài văn phòng phẩm.
[ clears throat ]
[ paper rustling ]
Frank...
Cậu có muốn vào làm việc ở phòng
Tội Phạm Tài Chính ở FBI không?
[ shuffles cards ]
Tôi đã có việc làm ở đây rồi.
Ông biết đấy, đưa thư trong tù.
Frank, bọn tôi có thể đưa
cậu ra khỏi trại giam.
Cậu sẽ được FBI giám sát đến
hết thời gian thi hành án,
với tư cách một nhân viên
của chính phủ liên ***.
Dưới sự giám sát của ai?
[ phone ringing ]
Xin chào. Tôi là Frank Abagnale.
Hôm nay tôi bắt đầu làm việc ở đây.
Đấy là một ngân hàng ở *** khác.
Thưa ông, anh Abagnale đã đến.
Gọi lại sau nhé.
[ melancholy melody playing ]
Xin chào, Carl.
Chào mừng đến với FBI.
Tôi sẽ chỉ cho cậu chỗ làm việc.
Carl... tôi sẽ phải làm
ở đây trong bao lâu?
Từ 8h15 sáng đến 5h00 chiều.
Nghỉ 45 phút ăn trưa.
Không,
ý tôi là... bao lâu?
Tất cả các ngày.
Tất cả các ngày, đến
khi cậu được thả.
- [ tapping ]
- Yeah.
- Chào, Carl.
- Chào.
Ông khỏe chứ?
Không phải lúc đâu, Frank.
Tôi đang dọn dẹp lại
bàn cho ngày cuối tuần.
Carl, sáng mai tôi đến lầm
việc cùng ông có được không?
Ngày mai là thứ Bảy.
Tôi sẽ bay đến Chicago
để thăm con gái.
Thứ Hai sẽ quay lại làm.
Ông đến thăm Grace, phải không?
Kế hoạch thì là thế.
[ heavy sigh ]
Thế từ giờ đến thứ Hai
tôi biết làm gì?
Xin lỗi nhé nhóc, tôi không
giúp cậu chuyện đấy được.
Xin lỗi nào.
[ phone rings ]
Hanratty nghe đây.
Được rồi, cho nối máy đi.
Ông Sawyer.
Vẫn khỏe chứ?
Tôi vẫn còn một đống ngân phiếu
giả từ cái ngân hàng ban nãy.
[ laughs quietly ]
[ opens and shuts drawer ]
Hãng Hàng Không Hoa Kỳ thông báo,
chuyến bay đến Chicago và San Franciso
đã bắt đầu mở cửa bán vé.
Cậu đã làm thế nào, Frank?
Cậu đã vượt qua kỳ thi luật
ở Louisiana thế nào?
Ông đang làm gì ở đây?
Nghe này...
Tôi xin lỗi đã lại lôi
ông vào chuyện này.
Cậu quay lại châu Âu là sẽ chết
rục trong nhà tù Perpignan đấy.
Cậu cố chạy trốn trong nước Mỹ, chúng tôi
sẽ tống cậu vào nhà tù Atlanta 50 năm.
Tôi biết điều đó.
Tôi đã dành 4 năm sắp xếp
cho cậu được thả tự do.
Tôi phải thuyết phục sếp ở FBI và thống
đốc *** rằng cậu
sẽ không chạy nữa.
Sao ông phải làm thế?
Cậu chỉ là một thằng nhóc.
Không phải thằng nhóc của ông.
Ông đã nói là sẽ bay đến Chicago.
Tôi không gặp con gái vào cuối
tuần này được, nó đi lướt ván.
Ông bảo nó 4 tuổi.
Ông đang nói dối.
Lúc tôi đi là 4 tuổi.
Bây giờ nó đã 15.
Vợ tôi cưới chồng mới được 11 năm rồi.
Lúc nào tôi cũng coi Grace mới 4 tuổi.
Tôi không hiểu.
Chắc chắn cậu không hiểu.
Nhiều khi tự nói dối
mình thì tốt hơn.
Lần này tôi để cậu đi, Frank.
Tôi sẽ không cố chặn cậu đâu.
Vì tôi biết rồi thứ Hai
cậu sẽ quay lại.
Vậy ư? Sao ông biết tôi sẽ quay lại?
[ chuckles quietly ]
Nhìn đi.
Frank...
chẳng có ai đuổi theo cậu cả.
Chuyến bay số 113 tới Pittsburgh
đang chuẩn bị cất cánh.
Hành khách đã có vé xin
tiếp tục đến cổng 23A.
Okay.
Alice, cậu ta vẫn chưa gọi à?
Không, vẫn chưa.
Chào buổi sáng.
Hôm nay tôi sẽ giới thiệu về một hình
thức lừa đảo ngân phiếu mới xuất hiện.
Đối tượng lần này đã rửa sạch, thay
đổi ngân phiếu rồi chuyển đến Arizona.
[ panting ]
Tên này rất liều, lần nào cũng thực
hiện chuyển món tiền hơn 5 chữ số.
[ door opening ]
Xin lỗi, tôi đến muộn.
Xin lỗi nhé.
Chúng ta đã có một tờ mẫu
ở bàn của đặc vụ Reiter.
Hãy ra nghiên cứu nó kỹ hơn.
Dòng nào cũng có dấu vết tẩy xóa.
Có vẻ như giá trị gốc của nó là 60$.
Tôi nhìn được không?
Vừa được rút ở Flagstaff 1 tuần trước.
Làm ngân hàng mất 16000$.
Đây là ngân phiếu thật.
Đúng.
Nó đã bị xóa đi viết lại.
Thứ duy nhất còn nguyên là chữ ký.
Nhưng nó rất hoàn hảo, Carl. Không
phải mực tàu hay thuốc tẩy đâu.
Không.
Một chất gì đó mới.
Có thể là một loại sơn móng tay với khả
năng tẩy sạch những vết mực in đè lên?
Cậu đã làm thế nào hả Frank?
Cậu đã gian lận trong kỳ
thi ở Louisiana thế nào?
Tôi không gian lận.
Tôi học suốt 2 tuần và đã thi đỗ.
Có thật không, Frank?
Có thật không?
Tôi nghĩ tên này lấy trộm ngân
phiếu từ hòm thư của các gia đình.
Hắn xóa tên người chủ đi
và thay bằng tên của hắn.
Ý cậu hắn là người địa phương?
Ông biết không, nếu là tôi
tôi sẽ gọi cho ngân hàng để hỏi trước
trong tài khoản còn bao nhiêu tiền...
xem xem có đáng công
bỏ ra để làm giả không.
Chính xác.
Tôi nghĩ tay này khá
thông minh đấy, Carl.
[ laughs ]
Có lẽ bây giờ công việc của
chúng ta chỉ là tìm và tóm hắn.
We'll start first thing
in the morning.
We'll run the name
Eric Anthony Feeders.
In Nevada, Arizona, California.
Both names, right?
Chris Frank, too?
Yeah...
Frank Abagnale Jr đã lập
gia đình được hơn 26 năm.
Ông có 3 con trai và sống một cuộc
sống bình lặng ở vùng Trung Tây.
Từ khi ra tù vào năm 1974,
Frank đã giúp FBI giải quyết
nhiều vụ án làm giả ngân phiếu lớn.
Ông được coi là người đi tiên phong trong
lĩnh vực tội phạm tài chính trên thế giới.
Frank cũng đã thiết kế nhiều
thiết bị soi ngân phiếu giả
được các ngân hàng và Top 500 công ty
của tạp chí Fortun sử dụng hàng ngày.
Bản quyền từ những phát minh đó giúp
Frank kiếm được hàng triệu đôla một năm.
Cho đến ngày nay, Frank và Carl
vẫn là 2 người bạn thân.