Tip:
Highlight text to annotate it
X
Bầu trời trên cao chúng ta có vẻ như vô cùng rộng lớn.
Và thực tế đúng là vậy.
Chúng ta thường cho rằng bầu khí quyển cũng rộng lớn như bầu trời,
nhưng thực ra đó chỉ là một lớp mỏng bao quanh trái đất.
Bầu trời trải rộng vô tận khiến chúng ta lầm tưởng rằng bầu khí quyển cũng vô cùng to lớn.
Điều đó có thể hiểu được ở một khía cạnh khác.
TÍNH THẤT THƯỜNG CỦA NƯỚC
Chúng ta chỉ cần thoát khỏi trái đất.
Phi hành gia vũ trụ đầu tiên đã có cơ hội khám phá làm sao không khí lại bao quanh trái đất
từ một độ cao cách mặt đất vài km.
Từ ngoài vũ trụ, bầu khí quyển có vẻ rất khiêm tốn,
và cũng dễ dàng hiểu được rằng bầu khí quyển không phải là vô tận.
Không khí mà các loài sinh vật sống hít thở hiếm khi tồn tại trên độ cao hơn 4km.
Như vậy khó có đường phố nào trong những thành phố lớn như Paris,
Mandrid hay London có thể kéo dài hơn thế.
Dù có vẻ ngoài như vậy, lớp không khí có thể hít thở được trên hành tinh cũng có hạn.
Bầu khí quyển tạo ra một lớp phủ mỏng manh
trong đó tập trung lượng không khí hỗ trợ sự sống
và cũng đóng vai trò tích cực trong việc quyết định khí hậu của cả hành tinh.
Thành phần các chất khí không những chỉ quan trọng cho việc hô hấp
mà còn giúp lọc các tia nắng mặt trời và giúp nhiệt độ trái đất luôn ổn định.
Các nhà khoa học phát hiện ra rằng trong vài thập kỷ qua,
thành phần các chất khí trong bầu khí quyển ở mọi nơi trên trái đất đã bắt đầu thay đổi.
Nguyên nhân là lượng phát thải khí CO2 hàng năm ngày càng gia tăng.
Mức khí CO2 gia tăng làm thay đổi tỉ lệ các chất khí trong bầu khí quyển.
Và điều đó ảnh hưởng tới cơ chế điều hoà khí hậu trên trái đất.
Tại sao những thay đổi lạ đó xảy ra? Nguyên nhân cũng thật dễ hiểu.
Con người luôn thải ra một lượng lớn khí CO2 vào bầu khí quyển trong hai thế kỷ qua
kể từ khi bắt đầu cuộc cách mạng đại công nghiệp.
Đốt cháy than, củi và dầu đều giải phóng các phân tử khí CO2 và tích tụ dần trong không khí.
Khí CO2 không những hấp thụ nhiệt lượng từ mặt trời,
mà nó còn hấp thụ bức xạ mặt trời phản chiếu bởi bề mặt trái đất vào không gian.
Hiệu ứng đó được gọi là hiệu ứng nhà kính,
và chắc chắn ảnh hưởng đến khí hậu trái đất khiến khí hậu ngày càng ấm dần lên với tốc độ ngày càng nhanh.
Ở bất kỳ nơi nào trên trái đất,
hiện tượng ấm lên toàn cầu đều có tác động trực tiếp đến chu kỳ nước.
Nhiệt làm biến đổi vòng tuần hoàn của nước.
Và những thay đổi này tạo ra các tác động không đoán trước được đối với bất kỳ hệ sinh thái nào phụ thuộc vào nước.
Các tác động luôn ở mức khác nhau.
Nhưng hàng năm, nhiều nghiên cứu đã đưa ra kết quả ngày càng chính xác về những tác động đó.
Những ấn phẩm khoa học có vô số dữ liệu về tác động của sự thay đổi khí hậu.
Một trong những ví dụ về tác động đó là với loài cóc vàng
chúng đang trở thành biểu tượng của sự thay đổi khí hậu.
Đây là loài động vật đầu tiên tuyệt chủng do hiện tượng ấm dần lên toàn cầu.
Cá thể cuối cùng được nhìn thấy vào năm 1989.
Các nhà nghiên cứu cho thấy rằng trong vài năm qua
nơi sinh sống của chúng đã khô cạn do nhiệt độ tăng cao.
Toàn bộ loài cóc sống tập trung tại một khu vực nhỏ thuộc Costa Rica
đã tuyệt chủng do bị thiếu nước và hơi ẩm trong thời gian dài.
Các loài lưỡng cư thực sự rất dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình thay đổi.
Sự sụt giảm đáng kể các loài lưỡng cư được ghi nhận ở khắp các lục địa,
ngay cả ở những vùng rừng nguyên sinh.
Tại cánh rừng nhiệt đới Trung Mỹ,
2/3 số lượng các loài lưỡng cư biến mất vào những năm 1980 và 1990.
Thủ phạm gây ra sự biến mất này chính là loài nấm da vốn không có hại đối với loài lưỡng cư.
Tuy nhiên trong điều kiện thời tiết ấm hơn, loài nấm này đột biến và trở thành loài có hại.
Các nhà sinh vật học đã kết luận các loài nhái và cóc nhiệt đới
đang biến mất với tốc độ bằng với sự thay đổi khí hậu của vùng.
Trên khắp hành tinh, các loài lưỡng cư nhanh chóng bị nhiễm nấm độc,
và cứ mỗi ngày trôi qua lại càng có nhiều loài lưỡng cư
bị bổ sung vào danh sách các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Thậm chí những các cánh rừng mưa nhiệt đới xa xôi cũng không thoát khỏi tác động của thay đổi khí hậu.
Hệ sinh thái này rất cổ xưa, nó luôn duy trì một môi trường với độ ẩm và nhiệt độ không đổi.
Sự sống được đa dạng hoá và sinh sôi trong những cánh rừng mưa nhiệt đới
nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác trên Trái đất.
Các loài động vật sống tại đây không quen với sự thay đổi lớn đó.
Chúng đã phát triển trong điều kiện môi trường rất ổn định
và vô hình chung chúng không có khả năng thích nghi với sự biến đổi khí hậu.
Khi nhiệt độ tăng lên một hoặc hai độ C
cũng đồng nghĩa với sự tiêu vong của hàng trăm loài côn trùng,
thằn lằn, rùa nhiệt đới hay ếch nhái.
Các loài chim sống trong các cánh rừng ẩm ướt đã bắt đầu nhận thấy những thay đổi xung quanh chúng.
Hàng năm, mây hoặc sương mù mang độ ẩm tới cho rừng ngày càng ít đi.
Những cánh rừng sương mù liên tục bị đẩy lên độ cao lớn hơn,
và những cư dân trong đó đang mất dần lãnh thổ của mình.
Môi trường thay đổi thu hút những loài mới đến và một số cư dân gốc,
ví dụ như những con chim đuôi seo này phải đối mặt với những đối thủ cạnh tranh và kẻ thù mới như loài chim tu-căng.
Chỉ trong vài năm, số lượng một số loài sụt giảm đáng kể và có thể nhanh chóng biến mất.
Trong khi chúng ta khó có thể nhận biết được thực trạng của những cánh rừng mưa,
thì sự suy giảm hệ sinh thái miền cực liên tục được đưa lên trang nhất các báo.
Giới truyền thông thường xuyên đề cập việc các tảng băng hà biến mất
và hiện tượng các núi băng ở Bắc và Nam cực đang tan dần.
Băng hà và băng địa cực là nguồn nước ngọt quan trọng nhất trên Trái đất
và nhiệt độ thấp hơn đang ảnh hưởng trực tiếp tới khí hậu toàn thế giới,
tạo ra những dòng hải lưu lạnh và không khí lạnh.
Giới khoa học đang lo lắng với tốc độ tan băng ở các tảng băng miền địa cực.
Khi toàn bộ băng đá tan ra sẽ làm cho mực nước biển dâng cao vài chục mét.
Nếu các tảng băng địa cực biến mất,
sẽ kéo theo sự biến mất của đa số các loài thân mềm, thân giáp, tảo biển và tôm cá.
Và như vậy hệ sinh thái biển sẽ bị thay đổi sâu sắc.
Các chuyên gia đã xác định mức thay đổi trong môi trường địa cực
và hiện đang lo lắng về những dấu hiệu đáng ngại về một số loài động vật bắt đầu xuất hiện.
Ví như trường hợp của chim cánh cụt.
Hầu hết các loài chim cánh cụt thường sinh sống ven biển.
Trong vòng 25 năm qua, số lượng một số đàn chim cánh cụt giảm đi 60%.
Nguyên nhân cũng dễ thấy:
đó là chúng đang chết đói vì nguồn thức ăn tôm cá của chúng
đang biến mất do nước ở Nam cực đang ấm dần lên.
Ngoài ra, băng tan kéo theo những thay đổi trên nơi cư trú của chúng
khiến cho quá trình sinh sản và nuôi dưỡng con non trở nên khó khăn hơn nhiều.
Nếu xu hướng hiện tại vẫn tiếp diễn,
trong vòng 3 thập niên nữa 3/4 số chim cánh cụt trên thế giới sẽ biến mất.
Chúng ta có thể dễ dàng hiểu được tác động của biến đổi khí hậu đối với các loài sinh vật sống.
Trường hợp của loài rùa biển là một câu chuyện dài.
Trong nhiều năm, các nhà bảo tồn tự nhiên vẫn lo lắng cho tương lai của chúng.
Loài bò sát này là một loài động vật cổ
và chúng đóng vai trò trung tâm trong việc giữ cho môi trường biển được sạch sẽ.
Chỉ có 8 loài rùa biển sinh sống tại khắp các vùng nước ấm,
và hầu hết số chúng đều nằm trong danh sách dài các động vật có nguy cơ biến mất.
Có nhiều lý do khác nhau, nhưng đều liên quan đến con người:
săn bắn bừa bãi, ô nhiễm, rác thải, lưới đánh cá trôi nổi,
phá huỷ bờ biển và thu nhặt trứng rùa. Danh sách vẫn còn dài và chưa kết thúc.
Những khu bảo tồn tự nhiên được tạo ra nhằm ngăn chặn sự tuyệt chủng của loài
bằng cách bảo vệ những bờ biển chúng tới làm tổ.
Việc xây dựng không được phép thực hiện tại đây.
Và các tổ trứng được bảo vệ đề phòng những kẻ trộm trứng.
Chúng được gắn thiết bị theo dõi nhằm tìm iểu thói quen và nơi sinh sống của chúng.
Tuy nhiên, tất cả những nỗ lực đó có thể trở nên vô ích.
Có những yếu tố mới đang đe doạ đến cơ hội sinh tồn.
Các chuyên gia đều tỏ ra sửng sốt khi phát hiện ra tất cả số rùa mới nở hiện nay đều là rùa cái.
Hiện tượng này đang tạo ra sự mất cân bằng đáng báo động và không lý giải nổi về giới tính rùa.
Sự thiếu hụt rùa đực là một vấn đề mới khó giải quyết.
Trường hợp lạ này khó giải quyết,
nhưng các nhà sinh vật học đang cố gắng tìm ra nguyên nhân.
Nguyên nhân chính lại là biến đổi khí hậu.
Giới tính của rùa được quyết định bởi nhiệt độ ấp trứng trong quá trình phát triển của phôi.
Những trứng nằm ở nơi có nhiệt độ mát mẻ hơn sẽ thành con đực,
ngược lại những quả ở nơi ấm ơn sẽ thành rùa cái.
Trong vài năm qua, nhiệt độ nước biển và không khí gia tăng
đã tạo ra một môi trường ấm hơn khiến cho tất cả trứng rùa nở ra rùa cái.
Những con rùa dẫn chúng ta tới một nơi khác
cũng bị ảnh hưởng bởi hiện tượng ấm lên toàn cầu.
Đây là nơi có hệ sinh thái phong phú và đa dạng nhất: rặng san hô.
Một phần lớn các loài sinh vật sống trên hành tinh sinh sống tại nơi đây.
Người ta ước tính rằng các rặng san hô là nơi sinh sống của nửa triệu động vật,
tương đương với 25% tất cả các loài động vật biển.
Hệ sinh thái cổ xưa này cũng rất dễ bị ảnh hưởng.
Các khu vực san hô đã bị ảnh hưởng do điều kiện môi trường mà con người đã tạo ra dưới biển.
Đánh bắt cá quá mức và ô nhiễm đã tàn phá một vùng rộng lớn.
Nhưng vấn đề nghiêm trọng nhất mà hệ sinh thái biển đang phải đối mặt là nhiệt độ gia tăng.
Các rặng san hô chỉ có thể sinh sống trong một khoảng nhiệt độ rất hẹp.
Chúng không thể sinh tồn ở nhiệt độ thấp hơn 18 độ C,
nhưng phát triển tốt nhất trong khoảng từ 23 đến 25 độ C.
Với nhiệt độ gia tăng, các loài tảo thường sống trong san hô đang bị tiêu diệt,
và điều đó tạo ra tác động vô cùng lớn đối với quần thể san hô.
Khi điều đó xảy ra, san hô mất đi sắc tố và chuyển sang màu trắng.
Khi không còn tảo sinh sống bên trong, san hô dễ bị các dịch bệnh nguy hiểm xâm hại.
Điều đó đã xảy ra đối với một số rặng san hô ở biển Caribbean
tại đó một số loài san hô đã nằm trong danh sách đỏ.
Hiện tượng san hô đổi sang màu trắng đang diễn ra ở khắp các vùng biển.
Đó là bằng chứng rõ ràng về việc nước biển đang ấm dần lên.
Nếu các rặng san hô chết đi,
hàng trăm nghìn sinh vật biển vốn vẫn cần san hô để làm nơi sinh sống và sinh sản cũng sẽ biến mất.
Như vậy sẽ dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn của cả một hệ sinh thái
mà cả triệu con người đang phụ thuộc vào đó trong quá trình sinh tồn.
Các loài chim biển cũng bắt đầu phải hứng chịu những thay đổi trong hệ sinh thái ven biển.
Các chuyên gia cho rằng trong vài thập niên nữa,
nhiệt độ Trái đất sẽ tăng lên 2 độ C.
Khi điều đó xảy ra, gần 40% các loài chim Châu Âu
và 70% các loài chim của Australia sẽ tuyệt chủng.
Chim lội nước rất nhạy cảm với những thay đổi về môi trường
vì chúng di chuyển hàng nghìn km từ nơi sinh sản tới nơi trú đông.
Cuộc sống của chúng phụ thuộc vào sự ổn định của nhiều yếu tố tự nhiên,
và chúng rất dễ bị ảnh hưởng bởi các thay đổi ở mỗi khu vực tự nhiên.
Chính vì vậy chúng được coi như những lính canh biến đổi khí hậu.
Ngày nay số lượng chim lội nước trên toàn thế giới đã giảm đến 50%
do những thay đổi nhỏ mà biến đổi khí hậu đã gây ra cho hệ sinh thái ven biển.
Tương lai sắp tới có vẻ ảm đạm.
Lũ lụt và hạn hạn xảy ra ngày càng thường xuyên hơn,
và tất cả 5 lục địa đang phải hứng chịu hậu quả.
Biến đổi khí hậu sẽ biến nước thành kẻ hành xử -
một dấu hiệu về thiên tai.
Những thay đổi trong chu kỳ nước đã được ghi nhận trên khắp thế giới,
và hệ sinh thái khắp nơi đều chịu tác động của nó.
Nghiên cứu khoa học đã xác định số lượng các vấn đề có thể lên tới hàng chục nghìn
và không chỉ dừng ở các vấn đề về động thực vật.
Loài người phải chịu trách nhiệm giải quyết toàn bộ những vấn đề do chính chúng ta gây ra,
và chính chúng ta cũng nằm trong số nạn nhân của sự biến đổi khí hậu ở quy mô rộng này.
Và chỉ riêng chúng ta mới có cách giải quyết.