Tip:
Highlight text to annotate it
X
Trước khi các bãi biển trở thành điểm đến của khách du lịch,
thì đó chính là nơi sinh sống của hàng triệu sinh vật.
Với chúng, các bãi biển là một nơi hỗn tạp cho chúng ăn, nghỉ ngơi, giao phối, và sinh sản.
Các bãi trải dài thành một đường mỏng manh xung quanh các lục địa
tạo thành một đường ranh giới ngoằn ngoèo giữa đất liền và biển khơi.
RANH GIỚI CỦA BIỂN
Thoạt nhìn, bãi biển dường như chỉ có cát và nước
tạo thành một vùng trống trải gồm đất và nước.
Tuy nhiên, khu vực giáp ranh này cũng nắm giữ nhiều bí mật.
Mặt trời và mặt trăng tạo ra hai nửa của tự nhiên tại nơi đất và biển hoà quện với nhau.
Mặt trăng là sức mạnh chế ngự thuỷ triều lên xuống cách nhau khoảng 6 giờ.
Nhịp điệu lên xuống thường xuyên này lại chi phối cuộc sống của những cư dân trên bãi biển.
Các bãi biển thực ra còn đa dạng hơn nhiều so với vẻ bề ngoài.
Một vài loại môi trường sống tồn tại trên cát nơi hoà trộn với những con sóng.
Trên hoặc dưới bãi biển đôi chút cũng có sự khác biệt lớn.
Nhưng sự hoà trộn giữa nước biển và cát lại thu hút rất nhiều loài sinh vật tới.
Chim cánh cụt Magellan dành gần nửa năm sống dưới nước,
nhưng khi mùa đông đến trên nửa nam địa cầu, hàng trăm nghìn con đổ về gần phía bờ.
Lần đầu tiên trong nhiều tháng
chúng lại đặt chân lên đất liền mặc dù hành trình về đây sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm.
Cả đàn di chuyển về nơi xa dần sức mạnh của biển.
Kẻ đến đầu tiên là những con trống.
Nhiệm vụ của chúng là đào một cái hang để làm tổ dọc bờ biển.
Đây quả là một việc khó khăn,
dù vậy chúng vẫn cố gắng tìm lại cái tổ cũ hết năm này qua năm khác.
Những con đực khác lại muốn tranh đoạt những cái tổ.
Không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải tranh giành.
Nơi đâu cũng thấy những cuộc tranh giành.
Nhưng khi mặt trời lặn,
chúng bắt đầu màn hợp xướng và bài ca chúng cất lên là một khúc nhạc lạ thường.
Trong khi đó, cặp chim đầu tiên đã đoàn tụ,
chúng cũng cố mối quan hệ với nhau hết năm này qua năm khác.
Nếu không phải tranh giành, những nghi thức tán tỉnh lập tức bắt đầu.
Con trống vỗ vỗ vào sườn con mái trước khi giao phối.
Những cái tổ thường nằm dưới bóng các bụi cây bám trên đụn cát ven biển.
Khi vào mùa và có nhiều thức ăn, mỗi cặp chim sẽ sinh ra hai chim non.
Sau thời gian ở lại trên các đụn cát ven biển,
chúng lại trở về với biển để tìm tôm cá, mang theo những đứa con mới sinh của chúng.
Các loài thực vật mọc trên cát mang đến sự bảo vệ và thức ăn.
Chúng mọc ở khắp nơi trên thế giới.
Các loài cây này thường có lớp màng ngăn nước dày
nhằm bảo vệ chúng trong điều kiện khô cằn và lá mọng để tích trữ nước.
Thực ra, chúng có nhiều điểm tương đồng với các loài cây sống trên hoang mạc.
Những sinh vật nhỏ thường ẩn núp dưới tán lá ngụy trang.
Ở vùng nhiệt đới, một số loài cua thường sinh sống dưới các tán cây bụi và chỉ xuống nước để sinh sản.
Loài cua cạn này thường tìm kiếm thức ăn trong đám thực vật ven biển.
Chúng làm tổ tại đây, trong các đụn cát giữa đám thực vật.
Càng gần biển, điều kiện sống càng khác biệt.
Rất hiếm các loài ăn thực vật ở đây vì ít cây cối mọc trên bờ biển.
Thực vật không lấn ra đường ranh giới đánh dấu mức triều lên.
Trên đường ranh giới đó chỉ có cát và cát.
Nhưng khối lượng cát khổng lồ trên các bờ biển và đụn cát thực ra đến từ đâu?
Cát trên các bãi biển được tạo thành do lực tác động cơ học của sóng khi vỗ vào bờ đá ven biển.
Những mảnh vỡ theo sóng đập trở lại các mỏm đá.
Quá trình kéo dài đó bào mòn những mảnh đá vỡ và cuối cùng tạo ra cát.
Trên một số bờ biển, trong cát có chứa một lượng lớn vỏ sò, ốc, và các mảnh vụn san hô.
Phần nhô cao trên bờ biển chỉ bị nhấn chìm khi thuỷ triều lên hoặc trong những cơn bão lớn.
Đó là chứng nhân đối với một số sự kiện quan trọng
trong cuộc sống của một loài hải cẩu lớn nhất trên trái đất.
Hải tượng là loài biết cách tận dụng bờ cát trong mùa sinh sản.
Nhưng chúng không bao giờ mạo hiểm đi quá xa mặt biển.
Chúng thích ở gần nước để dễ bề làm mát cơ thể.
Sau voi, hải tượng là loài động vật có vú lớn nhất trên cạn.
Hải tượng thường dành khoảng 3 tháng trong năm sống trên cạn.
Sau hai tuần giao phối và sinh sản,
những con trưởng thành trở lại biển để nạp lại năng lượng.
Sau đó, chúng lại trở lại bờ để thay lông. Đó là thời kỳ xấu xí của cả đàn.
Phải tốn rất nhiều năng lượng để đổi hết bộ lông.
Nhưng chúng cố gắng tiêu hao càng ít năng lượng càng tốt.
Khoảng thời gian này của chúng khiến ai nấy đều ganh tị
khi chúng chỉ nằm đó phơi mình trên bãi biển.
Cách tiết kiệm năng lượng tốt nhất là ngủ.
Chúng nhanh chóng rơi vào giấc ngủ sâu trong đó chúng có thể ngừng thở trong vòng từ 10 đến 15 phút.
Một điều ngạc nhiên khác là chúng có thể lặn dưới nước trong hơn 2 giờ.
Chúng có lớp mỡ dày tới 7cm dưới da.
Lớp mỡ này đóng vai trò như một bộ áo lặn
giúp chúng đằm mình trong những vùng nước băng đá.
Nhưng hiện nay, lớp áo đó đang gây ra cảm giác nóng và khó chịu.
Chúng tự làm mát bằng lớp cát mát
hoặc thông qua lượng máu tuần hoàn qua cái mõm có chức năng tản nhiệt rất tốt.
Vùi mình dưới cát ẩm quả thật dễ chịu.
Một vài bãi biển có ít loài sinh vật cư trú.
Những bãi sỏi ven biển thường trống trải nơi không có môi trường thuận lợi cho các loài động vật.
Do các bãi biển liên tục thay đổi khiến cho hệ động vật sống trên cát không thể ứng phó kịp.
Nhưng đây lại là nơi sinh sống của rất nhiều loài giáp xác nhỏ ví dụ như loài bọ biển.
Giống như nhiều cư dân bãi biển khác,
chúng tìm kiếm các chất thải và mô chết được thuỷ triều đưa lên.
Đây giống như một khu chợ tại đó đất liền và biển cả mang tới hàng hoá và đồ thải,
và tại đó luôn có những sinh vật biết cách chuộc lợi.
Các chất thải được đưa lên bờ thu hút một quần thể động vật đông đảo.
Lợn rừng đôi khi cũng tới để tìm kiếm xác thối.
Xác một con cá voi to lớn là một móm vô cùng hấp dẫn mà chúng không thể từ chối được.
Những đàn chim cát luôn kéo về đây tìm kiếm các động vật nhỏ.
Chúng nhanh chóng lục lọi bờ biển để tìm kiếm côn trùng bị thu hút bởi những mẩu thức ăn do biển đưa lên.
Ốc mượn hồn trốn trong cái vỏ đến khi hoàng hôn buông xuống.
Sau đó chúng bò ra tìm kiếm những mẩu thức ăn nhỏ hoặc xác các loài cua khác.
Hay bất kỳ một cái xác khác.
Các mảnh vụn từ tảo biển hoặc các vi sinh vật khác
là nguồn thức ăn cho các loài lọc nước như loài cua vàng chuyên lọc các vi sinh vật từ cát.
Chúng trông như những cỗ máy lọc cát chăm chỉ.
Trong những vùng khí hậu ôn hoà và nhiệt đới, bãi biển là điểm đến của các loài rùa biển.
Đây đang là mùa giao phối,
khi đó con đực và con cái cùng nhau bơi lượn dưới biển
để thực hiện các nghi thức giao phối ở khu vực gần bờ.
Khi đêm xuống, chúng trở lại đất liền,
tìm tới những nơi cao ráo nhất trên bãi biển,
tại đó trứng sẽ được giữ ở mức nhiệt độ và độ ẩm ổn định nhất.
Mỗi con sẽ đẻ khoảng 120 trứng và sẽ trở lại biển khoảng 1 giờ sau đó.
Sau khoảng 3 đến 4 đêm, có tới 50.000 con rùa trở về đây và đẻ ra nửa triệu trứng.
Nhưng không phải toàn bộ chúng có cơ hội trở về với biển.
Cái xác của một con rùa xấu xố thu hút đàn chim ó butêo.
Đây là một bữa ăn thịnh soạn cho những con chim ăn xác thối này.
Chưa tới một ngày, cái xác chỉ còn bộ xương khô.
Mùa sinh sản của rùa là thời kỳ béo bở cho đàn chim ó buteo.
Nhiều ổ trứng rùa bị bới lên và một số khác lại về tay những loài đi săn về đêm.
Chim ó buteo không bao giờ bỏ qua cơ hội để sót lại số thức ăn chúng kiếm được.
Các bãi biển lập thành một đường ranh giới giữa đất liền và biển cả.
Đây chính là nơi sinh sống của vô số các loài sinh vật và quyết định sự sinh tồn của chúng.