Tip:
Highlight text to annotate it
X
Chiến trường Việt Nam
Hoàn bình trong danh dự
Giữa năm 1972 và 1975 quân đội Bắc và Nam Việt giao tranh
trong một vài trận đánh lớn nhất chiến tranh Việt nam.
Trong 3 năm, 2 lần chính phủ Bắc Việt đã tiến hành cuộc tấn công quy mô lớn
nhằm vào chính phủ Nam Việt
Đây là một cuộc chiến rất cam go
với sự giao tranh quyết liệt giữa 2 bên.
Quân đội Nam Việt được sự ủng hộ của Mỹ đã
đẩy lùi các cuộc tấn công của đầu tiên của Bắc Việt.
Với Bắc Việt, những cuộc không kích dữ dội nhất
gần như đã khiến Bắc Việt chùn bước.
Tuy nhiên cuộc tấn công mãnh liệt lần thứ 2 của Bắc Việt đã khiến Nam Việt không thể ngăn chặn.
Chiến lược của Mỹ là trang bị và huấn luyện cho Nam Việt
khả năng tự vệ.
Quân chiến đấu của Mỹ đã rút lui.
ĐỐi với Nam Việt, kết quả là một thảm kịch.
Trong chiến dịch oanh liệt kéo dài 4 tháng,
xe tăng Bắc Việt đã hiên ngang tiến về cửa ngõ Sài Gòn.
Khai mào trận đánh.
Chiến lược của Hà Nội năm 1969 là tăng cường áp lực đối với Nam Việt.
Trong khi đàm phán tiếp tục diễn ra ở paris
họ muốn thay đổi vị trí của mình trên chiến trường.
500.000 quân Mỹ đang được triển khai ở miền nam.
Tháng 2/1969, trong không khí đón tết,
căn cứ của họ đã trở thành mục tiêu tấn công của Việt Cộng.
1140 binh lính Mỹ bị chết.
Tân tổng thống Richard Nixon
và cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger
ngay lập tức ra lệnh trả đũa.
Máy bay B 52 Mỹ thả 500.000 tấn bom
xuống các khu căn cứ của Việt Cộng dọc khu vực biên giới Campuchia
trong một chiến dịch bí mật mang tên “Menu”.
Quốc hội không được thông báo và những máy bay giả vờ bị lạc
để che dấu một thực tế là bom đang rơi xuống đất Campuchia,
một đất nước trung lập.
Cùng thời điểm đó, Mỹ và Nam Việt
bắt đầu tiến quân về phía biên giới Campuchia.
Tham gia chiến đấu vào mùa xuân năm 1969, lực lượng Việt Cộng
gồm có 4 dư đoàn , chủ yếu là quân Bắc Việt.
Sau trận đánh cam go, các tiểu đoàn của NVA đã rút quân.
Chỉ có các tiểu đoàn địa phương của NLF ở phía sau
dduwwocj lệnh chia thành các tốp nhỏ.
Các đơn vị lớn của Mỹ cũng được chia nhỏ
và dàn trải khắp khu vực rộng lớn ở nông thôn.
Quân Mỹ kết hợp với Nam Việt đã
càn quét ở những vùng đông dân nhất ở Nam Việt.
Tháng 04/1969, một dấu hiệu kinh hoàng đã làm
thúc đẩy nhanh tiến trình Việt Nam hóa.
Số binh lính Mỹ chết trong tham chiến đã vượt
số lượng Mỹ chết trong chiến tranh Triều Tiên là 33.629 người.
Càng ngày Mỹ càng cảm thấy rằng cần phải đảm bảo cho quân Nam Việt
tự điều hành cuộc chiến.
Kế hoạch của Mỹ là giúp đỡ chính phủ Nam Việt
dành lại quyền kiểm soát đối với khu vực rộng lớn vùng nông thôn.
Các khu vực đông dân được tăng cường tuần tra
để cố gắng tìm kiếm ra nơi ẩn náu của kẻ thù.
Cách đanh thường xuyên là kéo Việt Cộng tham gia tấn công vào một đơn vị nhỏ
và sau đó tấn công bằng những cuộc không kích lớn.
và bằng máy bay trực thăng.
Kiểu đánh này thường diễn ra ở quanh các làng quê
và đã tiêu hủy được một lực lượng lớn quân đối phương.
Hỏa lực Mỹ gây thiệt hại không nhỏ đối với dân thường.
Đối với quân du kích NLF, 6 tháng cuối năm 1969 là một thử thách lớn.
Chưa đầy 2 năm, số thương vong của họ đã lên tới hơn 70% ở nhiều khu vực.
Lương thực cạn kiệt, nguồn cung cấp từ các làng quê bị hạn chế
vì các cuộc tuần tra của Mỹ.
Cùng lúc đó, chương trình Phoenix, một chiến dịch do CIA chỉ đạo
và lính Mỹ và Nam Việt thực hiện
đã khiến 40.000 người ủng hộ NLF phải chết.
Hàng nghìn người khác bị tra tấn và bỏ tù.
Trong năm đó 28.000 người đã ra khỏi NLF và NVA.
Tuy nhiên, tinh thần chiến đấu của quân đội Nam Việt không hề tốt hơn
với tỷ lệ cứ 10.000 người có 100 người đảo ngũ.
Trong khi quân chính phủ Nam Việt chiến đấu để
giành lại quyền kiểm soát đối với các làng quê từ tay NLF
các nhà hoạch định quân sự Mỹ chuyển hướng sang Campuchia.
Chiến dịch ném bom bí mật do tổng thống Mỹ phát động
vẫn đang tiến triển tốt đẹp.
Thời điểm này, lực lượng bộ binh của Mỹ đã bị cấm
tăng cường hoạt động ở Campuchia.
Đây là một nước trung lập và từ năm 1950, lãnh đạo của nước này là quốc vương
Sihanouk đã đứng về cả 2 phía.
Có lúc là liên minh của Mỹ, song ông vẫn cho phép lực lượng NVA
đến đường mòn Hồ CHí Minh ở miền Nam qua vương quốc mình
và tổ chức các khu căn cứ dọc theo khu vực biên giới
miền đông nơi tiếp giáp với Việt Nam.
Tháng 3/1970 đã diễn ra cuộc đảo chính lật đổ Sihanouk do CIA đứng đằng sau.
Chính phủ mới do Lon Nol đứng đầu ngay lập tức
xua đuổi toàn bộ quân Việt Cộng và Bắc Việt ra khỏi vùng đất Campuchia.
Tiếp theo là hoạt động của Mỹ và Nam Việt.
Khu căn cứ Việt Cộng trên đất Campuchia bị quân đội hoàng gia Campuchia
tấn công từ phía tây.
Bắc Việt nhanh chóng đưa quân sang hỗ trợ
và cùng với sự giúp đỡ của du kích Campuchia, Khmer đỏ
họ đã ngăn cản được sự tiến công của quân chính phủ.
Trong khi đó, Mỹ và Nam Việt đã triển khai
lực lượng hùng hậu đến khu vực biên giới.
ngày 29/04/1970 quân Nam Việt tấn công
vào các căn cứ Việt Cộng ở Campuchia.
2 ngày sau, 30.000 quân Mỹ gồm
các đơn vị thuộc 3 sư đoàn Mỹ đã tiến hành cuộc tấn công thứ 2.
Mục tiêu tiếp theo là một căn cứ ở thung lũng Se Sam.
Sau đó thêm nhiều cuộc tấn công ở miền Nam.
Chiến dịch ở Campuchia kéo dài trong 60 ngày.
Quân Mỹ và Nam Việt phát hiện ra các điểm tập kết trong rừng
và họ đã thu được 28500 vũ khí, 16 triệu băng đạn
súng tiểu liên và 14 triệu pound gạo.
Mặc dù hàu hết quân Việt Cộng đã tìm đường thoát qua sông Mekong
song con số thương vong của NVA và NLF lên tới 10.000 người.
Tuy nhiên khi tư lệnh Nam Việt bị chết trong một vụ rơi máy bay
Nam Việt đã rút quân.
Khi tin về chiến dịch tấn công Campuchia bị lộ ra tại Mỹ
công chúng đã kịch liệt phản đối.
Nhiều người tin rằng, mặc dù Nixon hứa sẽ rút khỏi Việt Nam,
ông vẫn có ý định mở rộng cuộc chiến.
Biểu tình nổ ra ở các trường đại học trên khắp cả nước.
Ngày 04/05/1970, tại trường đại học Kent State ở Ohio
vệ binh quốc gia đã bắn chết 4 sinh viên.
Bất đồng sâu sắc về vai trò của Mỹ ở Đông Nam Á
có một ảnh hưởng lớn đến binh lính Mỹ ở Việt Nam
Trong nước, quan điểm về cuộc chiến trở nên mâu thuẫn sâu sắc.
Thêm vào đó là căng thẳng ngày càng tăng giữa các chủng tộc
và giữa các tầng lớp xã hội.
Đây là một sự xáo trộn rất nguy hiểm.
Lúc này chỉ có một số ít binh lính
vẫn còn phục vụ ở Việt Nam.
Khó khăn về việc duy trì kỉ luật quân đội đang là gánh nặng lớn đối với
các nhà lãnh đạo non trẻ và thiếu kinh nghiệm.
Từ năm 1969 đến 1971, quân đội Mỹ
tiến hành hơn 700 cuộc tấn công.
83 sĩ quan bị chết và gần 650 sĩ quan khác bị thương.
Nhiều cuộc tấn công được thực hiện
bằng việc ném lựu đạn vào lều nạn nhân.
Vấn đề kỉ luật trở nên trầm trọng hơn vì nạn nghiện hút ngày càng lan rộng.
Năm 1972, chỉ có gần 5000 quân lính cần phải đến bệnh viện để điều trị vì bị thương
song có hơn 20.500 quân phải được điều trị vì nghiện hút.
Vào thời điểm này, điều đơn giản nhất đối với các binh lính
là Mỹ cần phải rút quân khỏi Việt Nam.
Mỹ đã rút 100.000 quân khỏi Việt Nam và Nixon hứa
sẽ đưa thêm 150.000 quân về nước trong 1 năm.
Không ai muốn những binh sĩ Mỹ cuối cùng lại bị chết ở Đông Nam Á.
Cuối năm 1970, Bắc Việt đã tăng cường lực lượng
bổ sung cho những tổn thất từ trận đánh của năm trước.
Lãnh đạo của họ muốn tiến hành chiến dịch mới
và một số lượng lớn người và lương thực được đưa đến đường mòn Hồ Chí Minh
qua Lào, Campuchia đến Nam Việt.
Mỹ đã phát hiện ra điều này.
Tư lệnh Mỹ xin được tấn công vào Lào
để phá hủy đường tiếp viện đến đường mòn Hồ Chí Minh.
Hy vọng của họ nhanh chóng bị dập tắt.
QUốc hội Mỹ cấm quân bộ binh được hoạt động
bên kia biên giới Nam Việt.
Lần này, quân Sài Gòn phải một mình chiến đấu
Nếu thành công, họ sẽ có
2 năm xây dựng quân đội Nam Việt
Cuộc tấn công của Nam Việt vào Lào được mang tên chiến dịch Lam Sơn 719.
Cuộc tấn công được mở màn bằng trận đánh
quét sạch đường 9 đến Khe Sanh do tập đoàn lục quân số 24 của Mỹ thực hiện.
ngày 08/02/1971, 3 sư đoàn lục quân Nam Việt với
17.000 quân được trợ giúp bởi xe bọc thép và đội Ranger
đã tấn công qua khu vực biên giới.
Tuy nhiên hị đang rơi vào bẫy của NVA
mà đã được lên kế hoạch rất kỹ lưỡng với sự phòng thủ phối hợp rất chặt chẽ.
Mục tiêu là 2 căn cứ lớn của quân Bắc Việt
đó là 611 và 604.
Các căn cứ này được bảo vệ bởi 40.000 quân chiến đấu.
Nam Việt đã thiết lập các căn cứ hỏa lực
để bảo vệ sườn tấn công của mình.
NVA đã phản công dữ dội
và lần đầu tiên tiến công chủ yếu bằng xe tăng
và súng 130 ly.
Các đơn vị NVA khác cắt đường 9 bao vây quân địch.
2 tiểu đoàn Nam Việt được đưa lên máy bay Tchepone.
Tổng thống Thiệu rất thất vọng
và ngày 08/03 đã ra lệnh rút quân.
Quân Nam Việt trở nên hỗn loạn.
Hơn 9000 quân Nam Việt bị chết và bị thương.
Họ mất 2/3 số xe bọc thép
và một số lượng lớn máy bay bị phá hủy.
Cuộc thử nghiệm khả năng chiến đấu của Bắc Việt với
sự thiếu vắng sự ủng hộ của Mỹ đã kết thúc một cách nhục nhã.
Mặc dù Bắc Việt đã đẩy lùi cuộc tấn công của Nam Việt
song họ cũng phải gánh chịu số thương vong lớn.
rong năm trước để bảo vệ các căn cứ của mình ở Lào và Campuchia
hàng nghìn quân Bắc Việt đã bị chết, nhiều
đơn vị Việt Cộng được yêu cầu tránh những cuộc tấn công lớn
trong khi đang củng cố lực lượng.
Lãnh đạo - Bắc Việt.
Sau khi Hồ Chí Minh mất
Phạm Văn ĐỒng,
Lê Duẩn,
và tướng Giáp
đã quyết tâm đi theo con đường Ông Hồ đã lựa chọn.
Cuộc đấu tranh để thống nhất đất nước phải được thực hiện bằng moin giá.
Từ khi Mỹ bắt đầu rút quân khỏi Nam Việt
Bắc Việt phải đối mặt với thể tiến thoái lưỡng nan.
Liệu Bắc Việt có nên chờ đợi thời cơ tiến hành một cuộc tấn công lớn khác
cho đến sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam hay nên tiếp tục tấn công ?
Tháng 5/1971 bộ chính trị chỉ đạo tướng Giáp chuẩn bị một chiến dịch mới.
Có lúc Bắc Việt đã đưa ra chiến lược là vừa chiến đấu,
vừa đàm phán cùng một lúc.
Cuộc đàm phán giữa Mỹ và Bắc Việt vẫn đang diễn ra ở Paris
tuy nhiên không mấy tiến triển.
Bắc Việt tin rằng, giành chiến thắng trên chiến trường
có thể sẽ giải tỏa được bế tắc.
Ít nhất nó cũng chứng minh cho Mỹ thấy rằng,
chính sách Việt Nam hóa của họ cũng không cứu vãn được Nam Việt.
Lãnh đạo - Mỹ/Nam Việt.
Mặc dù tổng thống Mỹ, Richard Nixon cho rằng
Việt Nam đang hủy hoại Mỹ cả ở trong và ngoài nước
song ông vẫn không có ý định đàm phán hòa bình bằng mọi giá.
Nixon lo ngại rằng nếu xuống nước sẽ
làm mất đi uy tín của Mỹ.
Phải cứu lấy Nam Việt.
Cũng giống như đàm phán hòa bình chính thức ở Paris
có một cuộc gặp bí mật giữa Henry Kissinger
và Bắc Việt.
Những cuộc đàm phán này gặp phải bế tắc
chủ yếu là vì tương lai của chính phủ Nam Việt.
Bắc Việt vẫn kiên quyết là, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải được thay thế
và chính phủ mới phải có NLF.
Bản thân Thiệu, lo lắng lớn nhất là khi chiến tranh kết thúc
Nixon sẽ có thỏa thuận riêng với Hà Nội.
Trên thực tế cia mà Nixon và Henry Kissinger trông đợi không
phải là Bắc Việt mà là Nga và trung Quốc.
Hy vọng của Nixon là Trung QUốc và Nga
sẽ gây áp lực buộc Bắc Việt phải thỏa hiệp.
Tháng 2/1972, tổng thống Mỹ lần đầu tiên
đã đến Trung Quốc.
Lúc này binh lính Mỹ đang rút khỏi Việt Nam
và Mao Tse Tung rất mong muốn kết thúc chiến tranh.
Ông đã gây áp lực buộc Hà nội tìm kiếm giải pháp hòa bình.
Cả Nixon lẫn cố vấn của ông cũng không thể ngờ rằng,
trước hàng loạt những hồ nghi
Bắc Việt không nghe theo Trung QUốc.
Chiến lược - Bắc Việt.
Khi họ đưa ra kế hoạch về một cuộc tấn công đầy tham vọng,
các nhà lãnh đạo Bắc Việt đều biết rằng mình đang đánh một ván bài lớn.
QUân Mỹ vẫn còn đang ở Nam Việt
và rất có thể sẽ được tăng cường.
Câu hỏi đặt ra là, liệu Mỹ có đưa thêm những đơn vị chiến đấu quy mô lớn
đến cứu Nam Việt.
Các nhà hoạch định Bắc Việt đã đi đến thống nhất là, trong năm bầu cử của Mỹ, họ sẽ không đưa thêm quân.
Thành công của chiến dịch sẽ phụ thuộc vào
việc tập trung được nhiều vũ khí và lương thực.
Điều đó có nghĩa là phải nhận được nhiều viện trợ hơn nữa từ Liên Xô và trung Quốc.
Mặc dù, cả 2 cường quốc đều miễn cưỡng ủng hộ cuộc chiến,
không nước nào muốn mất đi ảnh hưởng của mình.
Kết quả là Bắc Việt đã nhận được nhiều vũ khí và lương thực
từ cả Trung QUốc và liên Xô.
Khác với cuộc tấn công lần trước
trận đánh này phụ thuộc vào tốc độ và độ cơ động.
Đối với Bắc Việt, đây là cách đánh mới dùng xe tăng và pháo
chọc thủng phòng tuyến của địch.
Theo kế hoạch Bắc Việt đã hình thành 3 mũi tấn công
thọc sâu vào Nam Việt.
Mũi tấn công thứ nhất qua khu vực phi quân sự
nơi chia cắt giữa 2 miền Nam bắc và từ Lào tiến về phía đông.
Sau đó sẽ đánh chiếm cả 2 tỉnh và các thành phố Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng.
Mũi tấn công thứ 2 xuyên qua Tây Nguyên
đến bờ biển Qui Nhơn.
Mũi tấn công thứ 3 từ Campuchia chiếm An Loc.
Sau đó sẽ thành lập chính phủ cách mạng lâm thời ở miền Nam.
Nếu không vấp phải sự kháng cự mạnh, các đơn vị sẽ đẩy mạnh tấn công
và chiếm Sài Gòn.
Các tư lệnh Bắc Việt đều biết rằng, tấn công Nam Việt
ở 3 hướng khác nhau là một kế hoạch mạo hiểm .
Không có hướng nào, lực lượng của họ lại mạnh hơn hẳn
so với đối phương.
Tuy nhiên tướng Giáp cho rằng, tấn công theo nhiều hướng
khiến cho Nam Việt khó có thể phán đoán ra những gì sẽ diễn ra trong tương lai.
Các đơn vị Nam Việt buộc phải ở thế phòng thủ, cô lập và phân tán.
Lúc này Giáp có thể tấn công vào từng khu vực đơn lẻ.
Các nhà lãnh đạo tính toán rằng, thậm chí một thắng lợi không triệt để đi chăng nữa
sẽ vẫn mang lại cho NVA cơ hội kiểm soát những khu vực lớn ở Nam Việt.
NLF có thể sẽ giành lại quyền kiểm soát về mặt chính trị đối với khu vực nông thôn.
Đây sẽ là một thử thách lớn đối với chính quyền Sài Gòn.
Vào thời điểm đó vị trí của Bắc Việt trong cuộc đàm phán
trong tương lai sẽ nhanh chóng được nâng lên.
Chiến lược - Mỹ/Nam Việt.
Ngày 01/01/1972, Mỹ chỉ còn lại 133.000 quân
ở Nam Việt.
2/3 số quân Mỹ đã trở về nước trong 2 năm qua.
Các đội quân Úc và New Zealand cũng sẽ rút khỏ Việt Nam
và lực lượng Nam Hàn đã bắt đầu trở về nước.
Giao chiến trên bộ hiện giờ chỉ diễn ra
ở các tỉnh thuộc quyền kiểm soát của quân đội Nam Việt.
Khi tiến trình Việt Nam hóa chiến tranh vẫn tiếp diễn, tư lệnh chiến trường Mỹ
được yêu cầu phải giảm số lượng thương vong của Mỹ.
Hoạt động của Mỹ lúc này tự vệ là chính với mục đích bảo vệ
các căn cứ Mỹ trước cuộc tấn công của súng cối và rocket.
Không lực của Mỹ được sử dụng theo hướng khác.
Máy bay ném bom vẫn đang tăng cường tấn công vào đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào.
Trong năm 1971, Mỹ đã thực hiện 70.000 phi vụ.
Tuy nhiên hoạt động không quân của Mỹ ở Nam Việt đã giảm sút một cách nghiêm trọng.
Không quân Nam Việt trông chờ chủ yếu vào sự hỗ trợ của Mỹ
đối với các cuộc giao tranh trên bộ.
Chiến lược tự vệ của Nam Việt
là ý tưởng của tổng thống Thiệu.
Thiệu tin rằng bất cứ một vị trí nào Việt Cộng giành lại được
sẽ đe dọa nghiêm trọng đến vị thế của mình trong cuộc đàm phán hòa bình ở Paris
Cuoocis cùng, ông đã quyết định sẽ bảo vệ toàn bộ Nam Việt.
Lệnh duy nhất mà ông đưa ra đối với quân đội Nam Việt
là bảo vệ từng tấc đất.
QUân đội Nam Việt bố trí hàng loạt pháo đài
và các đồn bột dọc biên giới.
Sau mối pháo đài là các sư đoàn bộ binh, mỗi sư đoàn có nhiệm vụ
bảo vệ khu vực xung quanh căn cứ của mình.
Bộ tham mưu liên quân Nam Việt được bảo vệ bởi một lực lượng không quân và thủy quân lục chiến
với vai trò như một lữ đoàn hỏa lực trong trường hợp bị tấn công.
Sự bảo vệ này cũng được hỗ trợ bởi các máy bay chiến đấu trên các
tàu sân bay Mỹ ở Vịnh Bức Bộ
và máy bay B 52.
Trong nhiều năm, Mỹ đã yêu cầu tổng thống Thiệu
phải dành được sự ủng hộ lớn hơn từ người dân Nam Việt. Chỉ khi nào thực hiện được điều này
mới có thể làm suy yếu sự ủng hộ của người dân đối với NLF ở vùng nông thôn.
Cuối năm 1972, Thiệu đã bắt đầu thực hiện một số
cải tổ theo như những gì Mỹ mong muốn.
Thiệu đưa ra chương trình để cho nông dân quyền sở hữu vùng đất họ canh tác.
Ông cũng cho xây dựng trường đào tạo
các nhà lãnh đạo địa phương về làm trưởng thôn.
Tăng cường tuyển dân quân tự vệ ở địa phương.
Thiệu cũng khoe khoang rằng 97% làng xóm
ở miền Nam là dưới quyền điều hành của chính phủ.
ĐỐi phương - Bắc Việt/Việt Cộng.
Trước khi diễn ra cuộc tấn công
mang tên chiến dịch Nguyễn Huệ
quân đội Bắc Việt đã hoàn toàn thay đổi.
Lúc này quân đội Bắc Việt đã có các trung đoàn tăng thiết giáp chính thức.
Lực lượng pháo cũng được tăng cường.
Từ vũ khí đến đàiphát thanh, tất cả các sư đoàn chiến tuyến
đều dduwwocj trang bị đầy đủ hơn bao giờ hết.
Cảng Hải Phòng vẫn dày đặc các tàu chở hàng tiếp viện
của Liên Xô.
Đã từng trải qua các chiến dịch ném bom dài của Mỹ trước đây,
những tàu chở quân, xe tăng, súng trường có thể di chuyển mà không lo sợ bị tấn công.
Không quân Bắc Việt có hơn 200 máy bay chiến đấu phản lực
tuần tra rất tích cực ở miền Nam Bắc Việt.
Tuy nhiên những máy bay này hiếm khi bay qua đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào
nơi máy bay Mỹ đang hoạt động rất mạnh mẽ
và họ sẽ không phải tham gia trong cuộc tấn công đã lên kế hoạch.
Thay vào đó, một số lượng lớn pháo phòng không được triển khai
kiểm soát đường tiếp viện và vùng tập kết.
Trên khu vực phi quân sự hóa, tướng Giáp triển khai 2 sư đoàn
bao gồm sư đoàn 308 và 3 trung đoàn bộ binh độc lập.
Lực lượng Bộ binh được hỗ trợ bởi các trung đoàn xe tăng, pháo, công binh.
Thêm một sư đoàn nữa được bố trí ở Lào đối diện với căn cứ cũ của Mỹ ở Khe Sanh.
Những tháng đầu năm 1972, Bắc Việt đã cho 1 sư đoàn thâm nhập vào
Nam Việt, dưới sự hỗ trợ của sư đoàn pháo binh độc lập.
Thêm 2 sư đoàn nữa nằm ở vùng duyên hải.
Các sư đoàn khác được triển khai thêm đến vùng biên giới phía tây.
Xa hơn nữa về phía Nam, một đơn vị khác bảo vệ vùng Châu Thổ sông Hồng.
Từ trước đến giờ, Bắc Việt vẫn đang thực hiện một cuộc tấn công trên bộ.
Quân đội của họ có thể duy trì hoạt động trên chiến trường
chừng nào còn lương thực và đạn dược.
Cuộc tấn công sắp tới lại khác.
Cuộc tấn công bằng hỏa lực theo kiểu và truyền thống và hiện đại và
sẽ làm phát sinh những vấn đề mới.
125000 quân tập trung ở biên giới Nam Việt sẽ tham gia chiến đấu
cùng với hơn 600 xe tăng
một lực lượng lớn hơn lực lượng mà tướng Patton đã chỉ huy trong chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Xe tăng sẽ tiêu tốn một số lượng lớn nhiên liệu và đạn dược.
Bộ binh sẽ phải theo cùng với xe bọc thép và
một một số lượng lớn các xe tải.
Cuộc chiến diễn ra với tốc độ nhanh chóng gây căng thẳng đối với hệ thống chỉ huy và thông tin liên lạc
khác hawnrnvowis những gì mà quân đội trước đây gặp phải.
Vũ khí - Việt Cộng
Loại xe tăng chủ yếu và Bắc Việt sử dụng là
T - 54, T - 72 của Liên Xô và Trung Quốc.
Chúng được trang bị súng 100 ly, khỏe và
dễ hoạt động trên chiến trường.
Một số đơn vị khác được trang bị xe tăng T - 34.
T - 34 được trang bị pháo 85 ly
hoạt động kém hiệu quả hơn và thường theo sau.
Như T - 55, nó có thể bắn loại đạn pháo có sức công phá lớn hoặc loại đạn nhọn.
NVA cũng triển khai xe tăng PT - 76, một loại xe tăng hạng nhẹ.
Đây là một loại xe tăng lội nước được trang bị pháo 76 ly.
Vì có khả năng lội qua sông, kênh rạch nên
đây là một loại vũ khí đặc biệt có giá trị ở vùng đất thấp Nam Việt.
Pháo của Bắc Việt bao gồm pháo dã chiến 130 ly do Liên Xô sản xuất
rocket và súng cối với nhiều cỡ.
Tất cả các đơn vị bộ binh đều có pháo phòng không và súng máy.
Cũng có một đơn vị phòng không do chuyên gia điều khiển.
Quan - Bắc Việt/ Việt Cộng.
Trong 12 năm chiến tranh ở Nam Việt, Lào và Campuchia
lực lượng Việt Cộng đã phải gánh chịu những tổn thất lớn.
Đầu năm 1972, hơn 600.000 quân BẮc Việt và NLF bị chết.
Cùng với số quân bị chết trong khi chiến đấu, hàng nghìn quân bị chết do bệnh tật
và do cuộc không kích của Mỹ nhằm vào đường mòn Hồ Chí Minh.
Ở Bắc Việt, nhiều vị trí trong lực lượng NVA còn bỏ trống
do sự thiếu hụt nghiêm trọng về lực lượng.
Trong 3 tháng , trước khi diễn ra cuộc tấn công
tất cả đàn ông ở độ tuổi từ 14 đến 45 đều phải tham gia nghĩa vụ quân sự.
Đây là lần đầu tiên, con em của các quan chức cấp cao trong đảng
phải tham gia nghĩa vụ quân sự.
NLF ở Nam Việt cũng bị rơi vào tình trạng khủng hoảng về lực lượng.
Quan chức và binh lính của chính quyền Sài Gòn có mặt ở khắp mọi nơi
khiến cho hoạt động tuyển quân của NLF gặp khó khăn.
Một số các vị trí khuyết trong các đơn vị du kích địa phương
thậm chí còn được thay thế bằng quân chính quy Bắc Việt.
Người Bắc phải đối mặt với nhiều khó khăn, ít nhất là không có bạn bè và người thân
để cung cấp thông tin, lương thực và nơi trú ẩn.
Việc Bắc Việt ngày càng chiếm ưu thế hơn đối với Nam Việt
đã gây ra sự căng thẳng trong các đơn vị Việt Cộng.
Nhiều thành viên NLF cho rằng, quân Bắc Việt sẽ không xem họ là những người cộng sự ngang hàng.
Họ cũng lo sợ rằng, nếu giành được thắng lợi
người Bắc sẽ tiếp quản miền Nam.
Chính trị viên ở các đơn vị phải rất khó khăn mới dẹp được những mâu thuẫn
giữa lính miền Bắc và miền Nam.
Đối phương - Mỹ/Nam Việt
Tháng 01/1972, lực lượng vũ trang Nam Việt đã lên
đến hơn 1 triệu quân.
Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ đang tiến triển tốt
với sự tăng cường về huấn luyện quân sự và triển khai số lượng lớn các loại trang thiết bị quân sự.
Bộ phận hậu cần và tiếp tế của quân đội cũng đang được tăng cường
để đối phó với hàng loạt hoạt động mới.
Lúc này Mỹ sẽ cấp cho Nam Việt vũ khí hiện đại,
phần dư thừa của cuộc chiến thế giới lần thứ 2.
Bộ binh nhận gần 1 triệu súng M - 16
và 20.000 súng máy.
Cac loại vũ khí hạng nặng Nam Việt nhận được đó là 400xe tăng mới và 200 bích kích pháo,
không quân được tăng cường nâng tổng số máy bay lên 2000 chiếc.
Từ đây không quân Nam Việt nhanh chóng trở thành lực lượng không quân lớn thứ 4 trên thế giới.
Để chuyển quân đội Nam Việt
thành một bộ máy quân sự chiến đấu hiện đại không phải là dễ.
Xe tăng, máy bay Mỹ được đưa đến Nam Việt
với những bộ sách hướng dẫn bảo dưỡng bằng tiếng Anh.
Sĩ quan Nam Việt muốn trở thành các chuyên gia kỹ thuật
trước tiên phải qua trường ngoại ngữ.
Các nhà cố vấn Mỹ đã thừa nhận rằng,
để xây dựng lực lượng vũ trang Nam Việt
thành một lực lượng phòng vệ đáng tin cậy phải mất rất nhiều thời gian.
Nam Việt được chia thành 4 khu quân sự,
mỗi khu chịu trách nhiệm một tập đoàn quân.
Nam Việt đã thành lập được tất cả 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn không quân,
3 lữ ddaonf thủy quân lục chiến
10 đội Ranger và 4
lữ đoàn xe tăng.
Không quân triển khai 9 đội máy bay chiến đấu,
14 máy bay trực thăng
và 3 phi đội máy bay vận tải.
Lực lượng chiến đấu của lục quân Mỹ hiện tại chỉ còn một số ít các đơn vị ở Đà nẵng ,
quanh Sài Gòn,
và ở cần Thơ, vùng châu thổ.
Không quân cũng có 2 liên đội máy bay chiến đấu chiến thuật,
1 liên đội trinh sát
và 1 liên đội máy bay B 52 ở Thái Lan.
Tàu sân bay Hancock và Coral Sea
vẫn đang có mặt tại trạm Yankee ở vịnh Bắc bộ.
Đầu năm 1972, 133000 quân đánh bộ Mỹ ở Nam Việt
đang chuẩn bị rút quân
tuy nhiên các đơn vị không quân của hải quân, lục quân, không quân
cũng như các chuyên gia hậu cần và thông tin liên lạc vẫn đang hoạt động.
1400coos vấn lục quân và thủy quân lục chiến Mỹ cũng ở lại tham gia hoạt động cùng với các đơn vị Nam Việt.
Mặc dù Mỹ rất bất bình, phần lớn các sư đoàn bộ binh của Nam Việt
chỉ là lực lượng phòng vệ tĩnh.
Họ chỉ phát lệnh giữ lấy lãnh thổ bằng mọi giá
đồng nghĩa với việc họ không mấy khích lệ việc sử dụng máy bay và xe bọc thép
Họ cũng không phát triển kỹ năng thực hiện cuộc tấn công nhanh.
Các sư đoàn bộ binh đều có các vùng cần phải bảo vệ của riêng mình
nên họ ngày càng trở nên an phận.
Gia đình của các binh lính nhanh chóng dựng nhà ở
xung quanh các căn cứ của sư đoàn.
Tình trạng hối lộ, đút lót để được xây dựng nhà ở lâu dài đã diễn ra
và nhiều binh lính đã yêu cầu số dân di chuyển nhưng bị từ chối.
Chỉ riêng trong năm 1971 đã có hơn 140.000 quân chính phủ đảo ngũ.
Vũ khí - Mỹ/ Nam Việt.
Trong các trận đánh sắp tới, lần đầu tiên trong chiến tranh Nam Việt sẽ phải đối mặt với
một lực lượng xe bọc thép lớn mạnh của Bắc Việt.
Đối với bộ binh, vũ khí phòng thủ chủ yếu là loại vũ khí chống tăng hạng nhẹ.
ĐÓ là một thiết bị phóng
có thể phóng rocket có định hình.
Loại này được các binh lính đánh giá cao
vì khả năng phá hủy các boongke và các cá cứ kiên cố.
Mỹ có hệ thống chống tăng mạnh và cơ động nhất.
TOW là một loại tên lửa chống tăng có dẫn đường
được đặt trên máy bay trực thăng vũ trang
Nó có tầm phóng hơn 3000 m và có độ chính xác cao.
Khi các xạ thủ nhắm vào mục tiêu
thiết bị điện tử của vũ khí này sẽ đảm bảo độ chính xác.
Trực thăng vũ trang hiệu quả nhất mà Mỹ đang sử dụng đó là Huey Cobra.
Đây là một mẫu mới.
Các xạ thủ ngồi đằng trước, phi công ở phía trên đằng sau.
Cobra rất nhanh, có khả năng bay với tốc độ 200 dặm/ 1giờ và có khả năng cơ động cao.
Nó có thể mang hàng loạt vũ khí
như súng, bệ phóng lựu đạn tự động,
đại bác 20 ly và 76 quả rocket.
Máy bay trực thăng Mỹ và máy bay tấn công Nam Việt
sẽ hỗ trợ đắc lực cho quân đổ bộ.
Tuy nhiên những máy bay có sức hủy diệt mạnh của Mỹ
lại luôn tránh xuất hiện.
B - 52 có khả năng mang 31 tấn bom
vẫn đang tấn công vào các mục tiêu ở Lào và Campuchia.
Mỹ cũng có một loại máy bay tấn công siêu âm hiện đại nhất trên thế giới.
Đó là loại máy bay cánh xòe cánh cụp F - 111.
Với cánh có thể xòe rộng, nó có khả năng hạ cánh ở tốc độ chậm.
Khi cánh cụp về phía sau, nó có thể bay với tốc độ 1600 dặm/ 1 giờ.
F - 111 có hệ thống dẫn đường bằng điện tử,
có thể ném bom vào các mục tiêu ở ban đêm và trong điều kiện thời tiết xấu.
Quân - Mỹ/Nam Việt.
Hầu hết các đơn vị lớn của Nam Việt đều có cố vấn quân sự Mỹ.
Họ là những người lính rất chuyên nghiệp,
nhiều người trong số họ đã từng đến Việt Nam 2 thậm chí 3 lần.
Vai trò chủ yếu của các cố vấn đối với các đơn vị bộ binh là
điều phối hỏa lực khi có yêu cầu.
Họ cũng đưa ra những ý kiến cố vấn về chiến thuật và động viên khích lệ tinh thần.
Ở một số đơn vị, sự có mặt của cố vấn lại là một trở ngại lớn.
Nhiều tư lệnh chiến trường Nam Việt chủ yếu dựa vào
kỹ năng quân sự của Mỹ.
Thời gian trôi qua, khi các cố vấn từng bước rút lui
phần lớn các sĩ quan Bắc Việt nhận thấy mình
không có khả năng chỉ huy
Trong nhiều năm, cái mà Mỹ phàn nàn nhiều nhất đối với các liên minh của họ
cách thăng cấp bậc trong quân đội Nam Việt.
Tình trạng nâng đỡ diễn ra thường xuyên.
Quan hệ ngoại giao quan trọng hơn nhiều so với
năng lực chuyên môn.
Chính việc thăng chức bừa bãi trong quân đội Nam Việt
đã dẫn đến một hậu quả không ngờ tới.
Trong nhiều năm Các sĩ quan không có vị thế về chính trị được đưa xuống các đơn vị chiến đấu.
Chính vì lẽ đó, năm 1972 các đơn vị tiền tuyến
đều do những người dày dạn kinh nghiệm chiến đấu chỉ huy.
Trong số nhiều vấn đề mà quân đội Nam Việt gặp phải,
vấn đề tồi tệ nhất là chất lượng huấn luyện kém.
Sự trau dồi kiến thức quân sự không được coi trọng.
Khi các trường quân sự yêu cầu các huấn luyện viên có kinh nghiệm chiến đấu xuống làm việc,
phần lớn các đơn vị chiến đấu đều loại ra người kém chất lượng nhất.
Kết quả là, một số đơn vị chiến đấu không giới thiệu được cho quân lính
những kỹ năng quân sự cơ bản nhất.
Trước trận đánh.
Tổng thống Nixon muốn đến thăm Nga sau
chuyến thăm Trung QUốc.
Ông rất hy vọng là quan hệ giữa 2 cường quốc
sẽ bước sang một kỷ nguyên mới.
Trên thực tế, sự kiện ở Việt Nam gây khó khăn cho toàn bộ kế hoạch.
Từ khi chiến dịch ném bom đánh phá Bắc Việt của Mỹ kết thúc vào năm 1968,
hoạt động trinh sát của Mỹ được tăng cường.
Mỹ triển khai các máy bay trinh sát thường
và máy bay Blackbird .
SR - 71 có thể bay với tốc độ 2000 dặm/ 1 giờ và hoạt động ở độ cao 70.000 feet
cao hơn nhiều so với tầm bắn của hệ thống phòng không.
Vào những tuần đầu của năm 1972, máy bay trinh sát của Mỹ đã phát hiện ra
sự tăng cường lực lượng của cộng sản ở phía Nam Bắc Việt,
các khu vực ở lào và Campuchia.
Những máy bay này đã chụp được hình ảnh của 7 đến 8000 xe tải đang chờ để di chuyển.
Mỹ đã phản ứng bằng các cuộc không kích dữ dội
nhằm vào nơi tập trung quân.
Tình báo Mỹ cho rằng đường tiếp tế Bắc Việt
sẽ bị phá hủy trước những ngày cuối cùng của tháng 1/1972.
Thời gian trôi qua mà không xảy ra vấn đề gì đã khiến Sài Gòn mất cảnh giác.
Các sĩ quan cấp cao Nam Việt hy vọng rằng cuộc tấn công trước trên không
và sự tăng cường lực lượng của quân đội Nam Việt buộc Bắc Việt phải nghĩ lại.
Mỹ rất tin tưởng vào những gì bộ trưởng quốc phòng Mỹ Melvin Laird
khẳng định trước quốc hội rằng một cuộc tấn công lớn của cộng sản
khó có khả năng xảy ra.
5 tuần sau đã chứng minh những gì ông nói là hoàn toàn sai.
Cuối tháng 3/1972,
tiếng súng đã bắt đầu vang lên ở hàng trăm sở chỉ huy
và các hầm ngầm của Bắc Việt.
Subtitling: DeStrangis