Tip:
Highlight text to annotate it
X
Thầy đã và đang sống lưu vong xa quê hương Việt Nam
bởi vì những hoạt động phản đối chiến tranh của Thầy.
Thầy đã thực tập nghiêm chỉnh theo lời Bụt dạy.
Thầy đã dâng hiến cả cuộc đời để tìm kiếm chìa khóa hạnh phúc cho thế giới
và chìa khóa đó là sống trong giây phút hiện tại
Bớt khổ là điều có thể làm được
Nếu bạn có thời gian để lắng nghe những nỗi khổ niềm đau trong bạn
và những khổ đau trên thế giới.
Thầy là một vị lãnh đạo tâm linh toàn cầu.
đã từng được Mục Sư Martin Luther King đề cử giải Nobel Hòa Bình năm 1967.
Và đây là câu chuyện của thiền sư Thích Nhất Hạnh (Thầy).
Đây là miền đông nam nước Pháp, gần vùng Bordeaux.
Với những cánh đồng nho bất tận.
Đất đai màu mỡ và khí hậu ôn hòa.
Một vùng đất đầy sức sống.
Thầy đã sống lưu vong khỏi đất nước Việt Nam từ hơn 30 năm nay.
Thầy đã chuyển đến vùng Bordeaux với những người đệ tử của mình.
Và đây là nơi tăng thân sống và thực tập.
Nơi đây có trồng nhiều cây mận (hay còn được gọi là cây Mai)
Và từ đó cộng động nơi đây được gọi là "Làng Mai".
30 năm trước, Làng Mai
được bắt đầu từ một trang trại nhỏ và đơn sơ.
Ngày nay, Làng Mai đã phát triển nên một trung tâm thực tập với 100 mẫu đất
gồm có 3 xóm
Làng Mai là tu viện Phật Giáo rộng nhất Âu Châu hiện nay.
Mỗi năm có hơn 10 nghìn người
từ khắp nơi trên thế giới về đây thực tập.
Họ về ở đây để tham dự những buổi pháp thoại
và tìm lại những nguồn vui sống.
Đây là thiền đường rộng nhất Làng Mai.
Vào lúc 9 giờ mỗi sáng,
tất cả các thiền sinh tập hợp lại đây
để tham dự pháp thoại của Thầy.
Thiền đường này chỉ chứa được 1 nghìn người
mà lượng thiền sinh lại đông hơn con số đó
nên họ phải ngồi bên ngoài thiền đường.
Trong mỗi buổi pháp thoại,
Hệ thống thông dịch ra các ngôn ngữ đồng thời được diễn ra
như tiếng Ý, tiếng Pháp,
tiếng Đức và tiếng Tây Ban Nha.
Điều quan trọng là làm sao
để mỗi thiền sinh có thể hiểu được những điều Thầy dạy.
Thầy không chỉ là một thiền sư mà còn
là một nhà lãnh đạo tâm linh toàn cầu người tạo ra cuộc cách mạng đạo Bụt.
Lời Thầy dạy vượt thoát ra khỏi hình thức của tôn giáo
Những lời dạy của Thầy là triết lý có thể làm thay đổi cuộc đời.
Kính thưa Đại chúng, Khi nghe tiếng chuông
thì sự thực tập của chúng ta là dừng lại những suy nghĩ.
Chúng ta chấm dứt tư duy
và bắt đầu thở trong ý thức.
Làm thế nào ta có thể tìm được sự bình an và hạnh phúc nội tâm?
Làm sao ta có thể tháo gỡ được những gốc rễ của khổ đau?
Thầy dạy về 'chánh niệm'
Thầy dạy về 'chánh niệm'
Chánh niệm là học cách trở về
và sống trong giây phút hiện tại
bây giờ và ở đây.
Tại Làng Mai, từ trên cao
ta có thể nhìn thấy toàn cảnh đẹp của vùng đất nông thôn.
rất thanh bình và yên tĩnh.
Làng Mai bắt đầu từ nơi đây.
Một cái thất nhỏ và đơn sơ.
Là nơi Thầy ở.
(Sư cô Chân Không) Lúc bấy giờ, thất chưa được xây dựng.
Chỉ có những con dốc đầy sỏi đá.
Nhưng rất đẹp.
Khi đứng đây,
chúng ta thấy được toàn cảnh.
Ngay chính nơi này,
Thầy chúng tôi cảm thấy tràn đầy năng lượng.
Và Thầy nói, đây chính là nơi xây dựng trung tâm thực tập của chúng ta.
Trải qua nhiều năm, nơi đây hiếm khi được phép quay phim
Thất được trang trí một cách đơn sơ.
Trên những kệ sách và bàn làm việc của Thầy chứa nhiều sách triết học và Phật Giáo.
Thầy đã sống ở đây đã hơn 30 năm.
Nhiều tác phẩm của Thầy
đã được ra đời tại đây.
Mặc dù là người Việt Nam,
nhưng Thầy thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và cả Hán Văn.
Thầy đã xuất bản hơn 100 đầu sách.
Thầy là một tác giả nổi tiếng về đề tài tâm linh.
"Phép lạ của sự tỉnh thức"
"Phép lạ của sự tỉnh thức"
là một tác phẩm ảnh hưởng toàn cầu.
đã được dịch ra hơn 35 ngôn ngữ.
Tổ chức giáo dục UNESCO cũng đưa những lời dạy của Thầy
về chánh niệm vào trong hiệp ước Manisfesto năm 2000
cho một nền hòa bình và bất bạo động.
Là một người đệ tử của Bụt,
Thầy đã cống hiến cả cuộc đời của Thầy
để giúp người bớt khổ,
và khám phá ra sự tỉnh thức bên trong.
Bớt khổ là điều có thể làm được.
Nếu bạn có thời gian lắng nghe những nỗi khổ niềm đau của mình
và khổ đau trên thế giới.
Khi bạn nhìn sâu vào khổ đau,
bạn sẽ thấy được nguồn gốc của nó.
Chúng là những gốc rễ trong bạn.
Thầy nói rằng nguyên nhân của khổ đau
không đến từ bên ngoài,
mà đến từ bên trong mỗi chúng ta.
Chúng ta cần phải hiểu những khổ đau của mình,
đối mặt với chúng,
để tìm lại sự bình an và hạnh phúc chân thực.
để có thời gian nhìn sâu,
lắng nghe khổ đau của mình,
bạn bắt đầu hiểu bản chất của khổ đau.
Cái hiểu đó sẽ giúp bạn bớt khổ.
và có từ bi với bản thân mình.
Chúng ta đi tìm sự tỉnh thức bên trong như thế nào?
Thầy dạy, nhờ thiền mà chúng ta có thể làm được việc đó.
Chánh niệm được vun bồi trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Chánh niệm là một loại năng lượng
bạn chế tác bằng những sự thực tập ngồi thiền, đi thiền và hơi thở ý thức.
bạn chế tác bằng những sự thực tập ngồi thiền, đi thiền và hơi thở ý thức.
Nhờ phép thực tập hơi thở
mà chánh niệm được nuôi lớn.
giúp chúng ta ra khỏi đời sống bận rộn
để sống một cách vững chãi trong giây phút hiện tại.
Khi chúng ta sống trong giây phút hiện tại,
chúng ta ý thức về những khổ đau của mình.
Chỉ khi mình ý thức được những khổ đau đó,
mình mới có thể tìm thấy niềm vui sống.
Năng lượng của chánh niệm sẽ giúp chúng ta có mặt
bây giờ và ở đây.
giúp mang thân và tâm trở về một mối.
Khi chúng ta bị chìm đắm trong quá khứ,
và càm giác lạc lối trong tương lai,
Thầy mong cho ai cũng có thể sống trong hiện tại.
Chỉ có hiện tại là vững vàng và có thật.
Chỉ có hiện tại là vững vàng và có thật.
Phút giây hiện tại phút giây tuyệt vời.
An nhiên khắp chốn.
Vòng tròn này tượng trưng cho khổ đau của mình.
Vòng tròn này tượng trưng cho khổ đau của mình.
Chúng ta phải chánh niệm,
để đánh thức lòng từ bi và chuyển hóa.
Nếu sống trong giây phút hiện tại,
chúng ta có thể nhận ra những mầu nhiệm của sự sống.
Rất nhiều điều kiện hạnh phúc đã có sẵn.
Chúng ta có thể hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây.
Chúng ta không cần chạy về tương lai để tìm hạnh phúc.
Đức Thế Tôn đã xác nhận rằng
Chúng ta chỉ có thể có hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây.
Chiến tranh là điều cho thấy sự xấu xa và tàn bạo nhất của nhân loại.
Mục tiêu của chiến tranh là sự sợ hãi và giận dữ.
Thầy đã sống lưu vong hơn 50 năm nay vì những hoạt động phản chiến.
Tại sao Thầy được Mục Sư Martin Luther King
đề cử giải Nobel Hòa Bình?
Chúng tôi sẽ tiếp tục câu chuyện "người lang thang" của Thầy trong giây lát
Tránh xa khỏi sự nhộn nhịp của thế gian,
đắm mình trong sự bình an và yên tĩnh của Làng Mai,
Các thiền sinh được Thầy hướng dẫn để trở về với cái bây giờ và ở đây,
để cảm nhận sự có mặt của chúng ta và thế giới.
Trong suốt những khóa tu,
đích thân Thầy hướng dẫn các buổi thiền hành
với các thiền sinh từ khắp nơi trên thế giới.
Thiền hành là một sự rèn luyện chánh niệm.
Không có tiếng nói nào trong các buổi thiền hành.
Chỉ đơn giản buông thư, thở và
thưởng thức cảnh vật chung quanh.
Thở vào và thở ra... ...không chỉ giúp ta buông thư
mà còn giúp ta rèn luyện chánh niệm.
Khi chúng ta mang sự chú tâm về hơi thở
thì những lo âu trong tâm đều được bỏ lại phía sau,
và chúng ta cảm nhận được hiện tại một cách vững chãi.
Chúng ta có đủ các loại phiền muộn
thỉnh thoảng là những âu lo.
Thầy dạy, chúng ta nên đối mặt
với những vấn đề của mình
bằng sự thực tập chánh niệm.
Thiền có nghĩa là có thì giờ để nhìn lại bản thân,
nhìn lại tình trạng của mình.
Hiểu được những khổ đau của mình là điều kiện tiên quyết
đế yêu thương mình, yêu thương người và yêu thương thế giới.
Chúng ta phải quay trở về với tự thân
và cố gắng thấu hiểu những khổ đau của chính chúng ta.
Đó là cách duy nhất để có thể bớt khổ,
Nếu chúng ta không bớt khổ được
thì chúng ta cũng không thể giúp cho người khác bớt khổ.
Người yêu thương thế giới, yêu thương muôn loài.
Thầy năm nay đã 87 tuồi (2012)
Thầy đã cống hiến cả đời Thầy cho mọi người.
Thầy sinh năm 1926 tại Việt Nam.
Thầy sinh năm 1926 tại Việt Nam.
Thầy xuất gia tại Tổ Đình Từ Hiếu (Huế) năm 16 tuổi.
Thích Nhất Hanh là Pháp Hiệu của Thầy.
Để tử trên thế giới gọi Người một cách kính cẩn và trìu mến là "Thầy".
Thầy được nhận 'truyền đăng' ở tuổi 23.
và trở thành vị giáo thọ thuộc dòng Liễu Quán
trong thế hệ thứ 42 tông Lâm Tế.
Năm 1960, tại Việt Nam,
Thầy đã thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội,
để giúp những người nghèo và trẻ em.
Sư cô Chân Không, người đã theo gót chân Thầy từ hơn 50 năm nay.
Sư cô là một trong những tình nguyện viên của trường.
Tôi là một trong những người lãnh đạo của trường thời bấy giờ.
Chúng tôi đến những đồn điền nghèo, không có trường học.
Chúng tôi dạy học cho trẻ em dưới bóng cây.
Người dân cảm động vì điều đó.
Cuối cùng chúng tôi cũng có trường học.
Chúng tôi có hợp tác xã nông nghiệp và vệ sinh cho người nghèo.
Năm 1962, Thầy bay đến Mỹ để nghiên cứu thêm về Phật học.
Sau đó Thầy dạy về đạo Phật tại các trường Đại học.
Chiến tranh VN lên cao trào năm 1962.
Chiến tranh VN lên cao trào năm 1962.
Vì sợ chiến tranh, Thầy đã quyết định trở về quê hương,
để đóng vai trò của Thầy trong việc cứu giúp đồng bào người Việt của mình.
Năm 1964,
Thầy 38 tuổi
Và Thầy đã thành lập hội Hòa Bình "Little Peace Corps",
để thực hiện những hoạt động phản chiến.
Thầy nhận ra rằng chiến tranh bắt nguồn
từ sự sợ hãi và hận thù của con người.
Những mục tiêu của chiến tranh là sự sợ hãi và giận dữ.
Với sợ hãi và giận dữ,
thì chiến tranh cứ tiếp diễn mãi.
Đã có rất nhiều cái thấy sai lầm.
Để chấm dứt chiến tranh, Thầy đã đi sang Mỹ
để vận động chính phủ Mỹ một cách trực tiếp.
Thầy đã viết một bức thư
gửi đến nhà lãnh đạo nhân quyền nổi trội nhất thời điểm đó
là Mục Sư Martin Luther King.
kêu gọi chấm dứt chiến sự tại Việt Nam.
Lá thư với lời tựa là "Tìm ra kẻ thù của con người".
Những kẻ thù thực sự của con người
là sự cuồng tín, tham lam, hận thù và kỳ thị
nằm sâu bên trong trái tim mỗi con người.
Giúp chúng tôi tránh việc dấn thân vào
những cuộc chém giết nhau vì sai khiến của người khác vì quyền lực và địa vị.
Bức thư đã làm Mục Sư Martin Luther King cảm động một cách sâu sắc.
Sau đó Mục Sư công khai phản đối chiến tranh Việt Nam.
Mục Sư cũng đã đề cử Thầy
giải Nobel Hòa Bình vào năm 1967.
công nhận những đóng góp của Thầy cho hòa bình thế giới.
Như một nổ lực để kết thúc chiến tranh,
Thầy đã hướng dẫn một phái đoàn Hòa Đàm tại Paris (Paris Peace Talks)
Thật không may là trong năm 1973,
trên bờ vực của Hiệp Ước Hòa Bình Paris,
Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa
đã cho Thầy sống lưu vong.
Trong thời gian sống lưu vong,
Thầy tiếp tục nổ lực
để cứu vớt những thuyền nhân Việt Nam.
Thầy cũng tiếp tục diễn giảng tại Mỹ Châu và Âu Châu,
về thông điệp hòa bình.
Phóng viên: Kính thưa Thầy, là một đệ tử của Bụt
Thầy thấy cảm nhận như thế nào về sứ mệnh của một người xuất gia trong thế giới này?
Tôi không thấy, tôi không xem đó là một sứ mệnh
Chúng ta có mặt ở đây như những con người.
Đức Thế Tôn muốn tìm ra một con đường
để chuyển hóa khổ đau của Ngày, và sau đó có thể giúp cho những người khác bớt khổ,
và làm tăng trưởng niềm vui sống của họ.
Đó là mong ước của Đức Thế Tôn.
Thực tập để bớt khổ
và thưởng thức sự sống của con người.
Và để giúp mọi loài, kể cả con người
bớt khổ và tận hưởng sự sống hơn.
Phát huy những lời dạy của Bụt,
Thầy đã tìm
chìa khóa hạnh phúc cho mọi người.
Năm 1982,
Thầy quyết định thành lập một trung tâm thực tập
gần vùng Bordeaux, nước Pháp.
Thầy và đệ tử của Thầy, Sư cô Chân Không,
cũng như nhiều người Việt tỵ nạn khác,
đã chuyển một trang trại xuống cấp
thành một thiền đường và một cư xá đơn sơ.
Đó là cái thiền đường lớn đầu tiên mà chúng tôi xây.
Như quý vị biết,
Làng Mai không chủ trương xây dựng Chùa to Phật lớn.
Chúng tôi cố gắng giúp cho mọi người tiếp xúc được với tượng Bụt của riêng họ,
vị Bụt trong thân và tâm của họ.
Làng Mai đã chuyển một nơi hoang dã
thành một trung tâm tu học đơn sơ.
và bắt đầu tiếp nhận thiền sinh từ nhiều nơi đến thực tập.
Tại Làng Mai, có 6 cây Trắc Bá.
30 năm trước, khi chưa có thiền đường
Thầy đã nói pháp thoại ngay dưới những cây Trắc Bá
Dáng người Thầy rất khiêm tốn.
Ở đó, chúng tôi hát với nhau trong đêm.
Vào thời đểm đó,
có khá nhiều thiền sinh từ Pháp và Anh đến viếng thăm và thực tập với chúng tôi.
Đó là lúc mà thế giới Tây Phương
vẫn chưa quen nền triết học Đông Phương.
Rất nhiều người phương Tây đến để nghe Thầy giảng
trong sự tò mò.
Trong năm đầu tiên, một nhóm các em thanh thiếu niên
có bệnh về tinh thần, được dẫn tới Làng Mai thực tập.
Những bác sĩ tâm lý của các em cũng không giúp được.
Nhóm các em thanh thiếu niên này
thực tập thiền trong một thời gian.
Điều đó đã chữa lành bệnh tâm thần và giúp các em trở lại sống với xã hội.
Năm sau đó,
rất nhiều nhà tâm lý, tác viên xã hội
và các giáo sư đại học tìm tới Làng Mai
để học những pháp môn từ Thầy và tìm nguồn cảm hứng.
Họ đến đây thực tập và trở về
chuyển hóa bản thân,
trở thành một nguồn hiểu biết và thương yêu cho con và vợ/chồng họ.
Mùa hè năm sau,
Con và vợ/chồng họ tìm đến để thực tập.
Ngày nay, Làng Mai tại Pháp đã dần phát triển nên 3 xóm.
Ngày nay, Làng Mai tại Pháp đã dần phát triển nên 3 xóm.
Hơn 30 trôi qua, đã có hơn 100 nghìn người
trở về đây
để học thiền và chánh niệm với Thầy.
Kể từ đó, Thầy cũng thiết lập thêm nhiều trung tâm thực tập khác
tại Mỹ, Đức, Việt Nam và Thái Lan...
Ảnh hưởng hơn cả tỷ người trên thế giới,
Thầy sống "lang thang" vì tất cả mọi người.
Khi nào mọi người cần chúng tôi,
chúng tôi luôn sẵn sàng để đến giúp.
ở bất cứ nơi nào có con người khổ đau.
Được chia sẻ những kinh nghiệm sống, những hạnh phúc,
và những phương cách thực tập là niềm vui của chúng tôi.
Họ là những đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Họ sống cuộc sống của "nhữngngười lang thang" vì Thầy.
Tốt nghiệp toán học từ Đại học Cambridge,
Thầy Pháp Linh đã tìm thấy
mục đích sống của mình tại Làng Mai.
Thầy Pháp Linh: Có cái gì đó bắt đầu thức tỉnh trong tôi.
đó là cái mong muốn được dấn thân và giúp đỡ
Thầy Pháp Dung từng là một kiến trúc sư nổi tiếng ở Mỹ .
Thầy Pháp Hữu là vị giáo thọ trẻ nhất trong tăng thân (2012).
Tất cả quý thầy đều được Thiền sư trao nguồn cảm hứng.
cống hiến cuộc đời của quý thầy cho nhân loại.
Câu chuyện của "những người lang thang" sẽ được tiếp tuc trong phần sau.
Phụ đề được thực hiện bởi cộng đồng Amara.org