Tip:
Highlight text to annotate it
X
VietBamboo's Blog trân trọng giới thiệu:
Chiến trường Việt Nam P9: Cuộc chiến trên bầu trời
Từ tháng 2/1965 đến tháng 11/1968
Mỹ tiến hành chiến dịch ném bom tàn khốc mang tên Rolling Thunder chống lại Bắc VN
Mỹ đã triển khai máy bay
nhằm vào các mục tiêu được phòng thủ kiên cố.
Đây là một cuộc chiến với sức hủy diệt lớn và đầy tốn kém
khi cả 2 bên sử dụng chiến thuật và vũ khí tinh vi nhất.
Trong chiến dịch Rolling Thunder, máy bay Mỹ đã rải
hơn 650.000 tấn bom nhằm vào Bắc Việt.
Cũng có nhiều chiến dịch lớn ở Nam Việt
yểm trợ cho lực lượng bộ binh Mỹ
và tấn công vào đường tiếp tế và các căn cứ của Bắc VN ở lào và Campuchia.
Cuộc chiến trên không ở Đông NAm Á không chỉ đơn thuần là cuộc giao tranh 15 00:02:07,722 --> 00:02:10,985 giữa Mỹ và BẮc Việt.
Ngay từ đầu, 2 đối thủ của Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh là Trung QUốc và Liên Xô
đã ủng hộ cho Bắc Việt về mặt vũ khí trang bị, cố vấn và sĩ quan cứu trợ.
Đối với các nhà lãnh đạo Mỹ, đây là một khó khăn lớn nhất mà họ vấp phải.
Liệu Mỹ có thể dành thắng lợi được hay không nếu không để cuộc chiến lan rộng và
bùng nổ thành mộ cuộc xung đột nguy hiểm?
Khai mào trận đánh.
Không quân Mỹ bắt đầu cuộc chiến ở Đông Nam Á
được hơn 3 năm trước khi quân chiến đấu của Mỹ đặt chân đến Việt Nam.
Cuối năm 1961, tổng thống John F. Kennedy đề nghị tăng cường viện trợ
cho chính phủ Nam Việt chống lại Việt Cộng.
Mỹ hỗ trợ chính quyền Sài Gòn vũ khí trang thiết bị mới
cộng với hơn 3000 cố vấn quân sự và sĩ quan không trợ.
Ngay sau đó, máy bay của lục quân và thủy quân lục chiến mỹ
đã đưa quân Nam Việt và cố vấn Mỹ tham gia
vào cuộc chiến chống lại Việt Cộng.
Máy bay vận tải của không quân Mỹ được sử dụng hỗ trợ cho việc triển khai quân và vận chuyển hàng tiếp tế.
Máy bay trinh sát tìm kiếm các đơn vị Việt Cộng
và máy bay đánh chặn, bảo vệ không phận của Nam Việt trước cuộc tấn công của Bắc VN
thậm chí cả máy bay của Trung QUốc và Liên Xô.
Trong số các đơn vị không quân Mỹ được triển khai đến Việt Nam
có một biệt đội máy bay trực thăng được cải trang thành máy bay Nam VN.
Dưới quy định Farm Gate
người điều khiển máy bay là người Mỹ
nhưng phải có quan chức không quân Nam Việt đi cùng.
Họ đã thực hiện phi vụ chiến đấu chống lại NLF một cách không công khai.
Mặc dù được sự hỗ trợ lớn từ phía Mỹ, Nam VN đã
nhiều lần bị NLF đánh bại trong năm 1963.
Lực lượng NLF ngày càng lớn mạnh, được chỉ đạo và trang bị những loại vũ khí tốt nhất từ trước tới nay.
Càng ngày, NLF càng nhận được nhiều vũ khí, đạn dược...
và binh lính đã qua huấn luyện từ BẮc VN.
Đường tiếp tế trọng yếu là từ Bắc Viêt qua đường mòn Hồ Chí Minh
vào trong đất Lào, Camphuchia đến các khu căn cứ căn NLF ở miền Nam.
Các binh lính Bắc Việt được bố trí dọc theo đường mòn
cùng với sự hỗ trợ của quân du kích Lào và chính lực lượng này đã đứng lên
chống lại chính phủ Lào.
Quân du kích của NLF tập trung ở châu thổ sông Mekong, quanh Sài Gòn
và ở khu vực trung tâm và một số vùng của miền BẮc.
Mỹ bố trí các đại đội trực thăng gần những khu vực này để
đưa quân Nam Việt vào chiến đấu.
Biệt đội trực thăng hoạt động theo luật Farm Gate có căn cứ tại Biên Hòa, gần Sài Gòn
và có một căn cứ quan trọng khác ở Tân Sơn Nhất.
3 sân bay nhỏ hơn cũng hỗ trợ cho hoạt động của biệt đội này.
Cuối năm 1963, phi công Farm Gate được gọi là biệt kích không quân
đã thực hiện hơn 80 phi vụ bay trong 1 tuần.
Họ đã tấn công vào khu vực căn cứ của Việt Cộng và đường sông...
và đã giết hàng trăm thậm chí có thể hàng nghìn quân Việt Cộng.
Trong chiến dịch Ranch Hand, cũng dưới luật Farm Gate,
máy bay đã phun thuốc diệt cỏ nguy hiểm để phá hủy cây cối trong rừng.
Chiến dịch này bắt đầu từ năm 1962 đã quét sạch cây cỏ dọc theo đường quốc lộ.
Từ đây các cuộc mai phục của Việt Công rất dễ bị phát hiện
Chiến dịch Ranch Hand không chỉ dừng lại ở các cuộc mai phục.
Toàn bộ đường mòn lớn trong rừng đã bị phun chất độc màu da cam
một loại thuốc diệt cỏ có chứa chất dioxin gây chết người.
Các tuyến đường mòn và căn cứ của du kích bị lộ diện
và hoa màu để cung cấp cho các đơn bị Việt Cộng cũng bị phá hủy.
Hè năm 1971, chiến dịch Ranch Hand đã phun
11 triệu galon chất độc màu da cam chứa 240 pound dioxin
và phá hủy 6 triệu mẫu hoa màu của Nam Việt.
1/7 diện tích nông nghiệp của cả nước bị bỏ không.
Thuốc diệt cỏ chứa dioxin bị bộ nông nghiệp
cấm sử dụng ở Mỹ vào năm 1968.
Ở Việt Nam, chiến dịch phun chất diệt cỏ bị kéo dài cho đên năm 1971.
YANKEE TEAM
Giữa tháng 4 và tháng 6/1964, lực lượng không quân Mỹ ở Đông Nam Á
được tăng cường mạnh mẽ.
2 tàu sân bay đã được điều đến bờ biển Việt Nam.
Trước các cuộc công kích của quân Bắc VN tại Lào Mỹ phải điều thêm lực lượng.
Để giúp quân chính phủ Lào, Mỹ
đã tăng cường các đợt trinh sát trên không lấy tên là chiến dịch Yankee Team.
Ngay sau khi chiến dịch Yankee Team bắt đầu, 2 máy bay hải quân
bị bắn rơi trên đất Lào.
Không quân trả đũa bằng việc tấn công vào trận địa pháo của kẻ thù
trong đợt không kích bằng máy bay ném bom phản lực đầu tiên ở Đông Nam Á.
Máy bay Mỹ bay trên đất Lào vừa để kiểm soát đường mòn Hồ Chí Minh
vừa để thu thập hình ảnh về hoạt động của quân du kích Lào.
Họ nhận thấy rằng, Bắc VN đang đưa quân và vũ khí lương thực
cho du kích miền Nam nhiều hơn bao giờ hết.
Ở Washington, tân tổng thống Lyndon Johnson
đang bị các chỉ huy quân đội Mỹ gây sức ép mạnh mẽ đòi trừng phạt Bắc Việt.
Lúc này, Johnson đã không nhất trí trừng phạt Bắc Việt bằng một cuộc tấn công chính thức và trực tiếp.
Tuy nhiên, Mỹ đã tiến hành cuộc tấn công bí mật nhằm vào Việt Nam,
Một sự kiện ở Vịnh Bắc Bộ mà cuối cùng đã châm ngòi cho cuộc chiến đó là:
Trong điều kiện thời tiết xấu, chỉ huy một tàu khu trục Mỹ
cho rằng mình đã bị tàu tuần tra của Bắc Việt bắn,
song thực tế lại không phải như vậy. (Sự kiện Vịnh Bắc Bộ 4-8-1964)
Tuy nhiên, ngày 05/08/1964, tổng thống lệnh trả đũa.
Chiến dịch Pierce Arrow đã diễn ra với sự tham gia của các tàu sân bay
Ticonderoga và Constellation.
Máy bay từ tàu sân bay Constellation ném bom các căn cứ hải quân của Bắc Việt
ở Hòn *** và Lộc Châu
trong đó, Mỹ mất 2 máy bay.
Máy bay từ tàu sân bay Ticonderoga tấn công vào các
kho dầu và căn cứ tàu tuần tra ở Vinh và các căn cứ khác ở Quang Khe
và sau đó oanh tạc ở Vinh.
Trước những cuộc không kích của Mỹ, ngay lập tức BẮc VN đã lên kế hoạch bí mật.
Trong nhiều năm, Bắc VN đã thành lập một lực lượng không quân được trang bị với máy bay chiến đấu phản lực của Liên Xô.
Lực lượng này có căn cứ tại Trung QUốc.
Sau những cuộc không kích của Mỹ, lực lượng này được triển khai về nước.
Ngay khi máy bay BẮc VN tiến hành tuần tra ở ngoài căn cứ mới
Mỹ nhanh chóng tăng cường lực lượng đến khu vực.
Không quân triển khai thêm 70 máy bay đến Việt Nam và Thái Lan.
Hải quân triển khai thêm 2 tàu sân bay đến khu vực vùng Vịnh.
Khi căng thẳng ở ĐÔng Nam Á lên tới mức cao điểm
tình báo Mỹ nhận thấy một diễn biến đáng lo ngại.
Tháng 10/1964, Trung QUốc, liên minh của Việt Nam
In the closing Vào những tuần cuối cùng của năm 1964, máy bay Mỹ
tiến hành một chiến dịch mới ở Đông Nam Á.
Mục đích là tìm và phá hủy đường phương tiện
và các kho quân sự trên đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào.
Với Mỹ, chiến dịch Barrel Roll là màn mở đầu cho ý định
ngăn chặn đường tiếp tế của Bắc Việt đối với NLF kéo dài trong 8 năm qua.
Ngày 08/02/1965, quân du kích của NLF ở Nam Việt
đã tiến hành hàng loạt cuộc tấn công nhằm vào con người và trang thiết bị máy móc của Mỹ.
Mỹ nhất định đòi Bắc Việt phải chịu trách nhiệm.
Máy bay trên các tàu sân bay Mỹ luôn ở trong trạng thái sẵn sàng trả đũa
khi nhận được lệnh của tổng thống.
Ngày 07/02/1965, chúng bắt đầu được triển khai nhằm vào các mục tiêu của bắc Việt.
Chiến dịch Flaming Dart được tiến hành từ các tàu sân bay
Ranger, Hancock, Coral Sea
và từ các căn cứ không quân ở nam Việt với sự tham gia của cả các máy bay Mỹ và Nam Việt.
Mục tiêu là các doanh trại quân đội của Bắc Việt
và căn cứ huấn luyện của sư đoàn bộ binh 325 ở Đồng Hới.
Do điều kiện thời tiết xấu nên chỉ có 1 mục tiêu là bị đánh phá lớn
đổi lại 1 máy bay Mỹ bị bắn rơi.
5 ngày tiếp theo, Mỹ tăng cường các đợt tấn công trả đũa nhằm vào các doanh trại của địch.
3 máy bay Mỹ bị bắn rơi.
Vào thời điểm này, các cuộc không kích trả đũa của Mỹ vào BẮc Việt
trở nên dữ dội hơn bao giờ hết.
Tuy vậy nhiều người ở Washington cho rằng
vai trò của máy bay ném bom cần được tăng cường hơn nữa.
Họ cho rằng chiến dịch tấn công kéo dài có thể khiến cho Bắc Việt
ngừng viện trợ cho cuộc chiến ở Nam Việt.
Đã từ lâu, các nhà hoạch định quân sự đã sẵn sàng
cho một chiến dịch ném bom lớn.
Đó là chiến dịch Rolling Thunder.
Ngày 13/02/1965, nhà trắng đã "bật đèn xanh".
2 tuần sau, vào ngày 02/03, sau một thời gian trì hoãn kéo dài
Mỹ đã tiến hành đợt không kích đầu tiên trong chiến dịch mới.
Theo như kế hoạch ban đầu các cuộc không kích chỉ diễn ra từ 2 đến 3 lần mỗi tuần.
Song, ngày 19/03, với chiến dịch Rolling Thunder 7
các đợt không kích sẽ diễn ra thường xuyên và kéo dài.
Rolling Thunder khởi đầu với kết quả không mấy khả quan.
Hơn 100 máy bay thực hiện phi vụ tấn công đầu tiên nhằm vào
kho đạn thuộc căn cứ hải quân Quang Khe.
5 máy bay Mỹ bị bắn rơi.
Vài tuần sau, rada cầu, đường tàu và các căn cứ quân sự của Bắc Việt bị tấn công
Có thể nói cuộc chiến trên bầu trời Bắc Việt
là cuộc chiến tốn kém hơn nhiều so với dự tính.
Các nhà lãnh đạo Mỹ.
Tổng thống Mỹ, Lyndon Johnson
hồ nghi về ý tưởng ném bom Bắc Việt có thể giải cứu được Nam Việt.
Lúc này ông sẵn sàng sử dụng binh lính Mỹ tấn công quân du kích.
Đơn vị chiến đấu đầu tiên đã được đổ bộ.
Lo lắng lớn nhất của Johnson được Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara chia sẻ là,
ném bom Bắc Việt có thể làm bùng nổ một cuộc chiến lớn hơn.
Liên Xô trong nhiều năm đã giúp đỡ Bắc Việt
về mặt tài chính và quân sự trong 4 năm.
Nếu cuộc ném bom của Mỹ quá tàn khốc
họ buộc phải nhờ đến người che chở mình.
Và không biết điều gì sẽ xảy ra.
Lo lắng của Johnson về việc cuộc chiến Việt Nam nằm ngoài khả năng kiểm soát
không được các quan chức quân sự ủng hộ.
Tham mưu trưởng liên quân không tin rằng, Liên Xô
sẽ can thiệp cho dù cuộc tấn công của Mỹ vào Bắc Việt có dữ dội đến đâu chăng nữa.
Những gì họ muốn đó là một chiến dịch nhanh và mạnh.
Bất kể các quan chức quân sự nghĩ gì đi nữa, johnson vẫn cho rằng,
chiến dịch ném bom lớn ở Việt Nam sẽ kéo theo cả Liên Xô, Trung QUốc.
Phương án duy nhất mà tổng thống có thể đưa ra xem xét
đó là tự mình kiểm soát chặt chẽ cuộc tấn công.
Hàng tuần, danh sách các mục tiêu ném bom
phải được tổng thống thông qua tại Nhà Trắng.
Lãnh đạo BẮc Việt/Trung Quốc.
Những đợt ném bom đầu tiên của Mỹ đã gây sốc đối với
các quan chức lãnh đạo Bắc Việt.
Kể cả Hồ Chí Minh lẫn chính phủ của ông đều khong nghĩ
rằng Mỹ có thể đi xa như vậy
tuy nhiên chưa đưa ra phương án nhựng bộ.
Ngày 08/04/1965, thủ tướng Phạm VĂn Đồng
đã đáp lại lời đề nghị hòa bình của tổng thống Mỹ
bằng hàng loạt yêu sách rất rắn do chính ông đưa ra.
Trong 10 năm , mục tiêu của Hồ Chí Minh
là thống nhất 2 miển của Việt Nam dưới sự lãnh đạo cảu cộng sản.
Cho đến lúc này, quân du kích của NLF đã đến rất gần với chiến thắng.
ông thấy không có lý do gì mà cần phải đàm phán.
Vấn đề là ở chỗ nếu BẮc Việt bị trở về con số không sau những trận bom
hoặc bị Mỹ và Nam Việt xâm lược , họ sẽ mất tất cả.
Chỉ với sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung QUốc
Bắc Việt mới có thể hy vọng được cứu sống.
Hai cường quốc này đã cấp khoản viện trợ
tương đương với gần 2 tỷ đô la trong 10 năm qua, song ông Hồ vẫn kêu gọi tiếp tục viện trợ.
Ông Hồ muốn lợi dụng mối thâm thù sâu sắc giữa 2 cường quốc
để nhận được nhiều nhất sự giúp đỡ trong phạm vi có thể.
Đầu tiên, Liên Xô dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Alexei Kosygin
đã yêu cầu các nhà lãnh đạo Bắc Việt tìm kiếm giải pháp hòa bình.
Tuy nhiên, Kosygin đã đích thân đến Hà Nội vào tháng 02/1965 khi chiến dịch Rolling Thunder bắt đầu.
Lập trường của Nga rất chắc chắn.
Lúc này Nga hứa sẽ cấp cho Bắc Việt rada tối tân , tên lửa phòng không...
và thêm nhiều máy bay chiến đấu phản lực.
Trung QUốc dưới thời lãnh đạo của Mao Tse Tung đi xa hơn Xô Viết.
Mao hứa sẽ triển khai lực lượng bộ binh chiến đấu nếu Bắc Việt bị xâm lược.
Để giúp đỡ Bắc Việt tự vệ trước các đợt ném bom,
ông hứa sẽ triển khai cả những đơn vị chống máy bay.
Mao muốn đảm bảo sự sống cho quốc gia láng giềng của mình trước mọi sự nguy nan.
Chiến lược - Mỹ.
Ngay từ đầu, cuộc không kích của Mỹ chống lại Bắc Việt
đã phải đáp ứng hàng loạt những mục tiêu khác nhau.
Các tư lệnh quân sự, trong đó có đô đốc Sharp
tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương,
muốn triệt phá toàn bộ khả năng gây chiến của Bắc Việt.
Đại sứ Mỹ tại Sìa Gòn, Maxwell Taylor
cho rằng các đợt không kích này tiếp thêm nhuệ khí cho Nam Việt.
Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara muốn từ những đợt ném bom này Mỹ sẽ từng bước tăng cường gây sức ép
để Bắc Việt phải nhất trí với những yêu sách của Mỹ.
Mục tiêu đầu tiên đặt ra đối với chiến dịch Rolling Thunder
là chủ yếu tạo ra ảnh hưởng về tâm lý và chính trị của Mỹ.
Tuy nhiên để bù đắp lại số lượng lớn máy bay và phi công Mỹ bị mất tích
lúc này, McNamara muốn kết quả cụ thể hơn.
Ông cho rằng, chiến dịch chống lại BẮc Việt
cần phải liên kết chặt chẽ hơn với cuộc chiến ở Nam Việt.
Kế hoạch mới của Mỹ đối với chiến dịch Rolling Thunder
là tập trung vào một khu vực của Bắc Việt nằm giữa vùng phi quân sự hóa, nơi chia cắt 2 miền Nam Bắc và vĩ tuyến 20.
Ở khu vực này, đường tàu, cầu và sân ga Vinh được sử dụng
để chuyển hàng và quân tiếp tế cho các đơn vị du kích ở Nam Việt.
Những đường liên lạc này bị đánh phá
trong một chiến dịch kéo dài 3 tuần làm rung chuyển cả bắc Việt.
Sau đó, máy bay trinh sát sẽ phá hủy nốt những chuyến hàng còn kẹt lại
tại những cây cầu và tuyến đường xe lửa đổ nát.
Đối với các nhà quân sự Mỹ, quyết định tấn công vào con đường giao thông của Bắc Việt
là đi đúng hướng.
Tuy nhiên không có nơi nào mà mức độ hủy diệt đạt được như chiến dịch mong muốn.
CÁc chỉ huy liên quân vẫn tranh luận rằng, một cuộc không kích toàn diện
phải phá hủy được các trung tâm quân sự, hệ thống phòng không, cảng và các nhà máy điện.
Tổng thống Johnson và Macnama thì luôn khẳng định rằng,
sẽ không có chiến dịch nào là toàn diện.
Đây phải là một cuộc chiến giới hạn để đạt được mục tiêu giới hạn
Trong mọi cuộc tranh luận giữa McNamara và các quan chức khác
mục tiêu giá trị nhất mà họ cho rằng cần phải được bảo vệ đó là tù binh.
Để cứu được số tù binh này, cần phải có sự đàm phán của Bắc Việt
Chiến lược Bắc Việt.
Khi chiến dịch Rolling Tunder bắt đầu,các nhà lãnh đạo Bắc Việt lo ngại rằng,
trong một thời gian ngắn, đất nước họ bị biến thành đống đổ nát.
Hệ thống phòng không của họ con rất thô sơ.
Nếu My tiến hành một cuộc tấn công toàn diện,
chỉ có một bộ phận nhỏ lực lượng không quân mới thành lập mới có đủ khả năng để đối phó.
Bắc Việt hy vọng rằng sự ủng hộ công khai của các nước liên minh
đặc biệt là Trung Quốc, có thể sẽ giúp họ thoát khỏi một cuộc tấn công quy mô lớn.
Mọi dấu hiệu Trung QUốc muốn thể hiện đều là sẽ viện
trợ cho Bắc Việt trong mọi trường hợp cần thiết.
Trên thực tế Trung QUốc theo dõi tình hình Việt Nam rất chặt chẽ.
Trung QUốc đã thay đổi cả chiến lược quốc phòng.
Mao Tse Tung từ lâu đã thừa nhận rằng, vì ủng hộ Bắc Việt
Trung Quốc có nguy cơ sẽ rời vào cuộc xung đột trực tiếp với Mỹ.
Ông đã chuẩn bị sẵn sàng.
Mao đã đưa ra một chương trình bảo vệ đồ sộ đảm bảo cho Trung QUốc có thể chống chọi
với một cuộc tấn công hạt nhân từ phía Mỹ.
Ông gọi đó là "mặt trận thứ 3"
và vào tháng 3/1965, chương trình này được triển khai rất có hiệu quả.
Giai đoạn đầu tiên của chương trình "mặt trận thứ 3" là huy động các khu công nghiệp
chủ yếu tập trung ởxung quanh các thành phố lớn
và chia thành 2 bộ phận
2 bộ phận này sẽ được đưa vào sâu trong đất liền.
Các công sự được xây dựng để bảo vệ về độ sâu
và mỗi tỉnh đều thành lập ngành công nghiệp vũ khí hạng nhẹ của riêng mình.
Trong khi đó, hệ thống phòng thủ chống lại các đợt ném bom của Mỹ
đều được tăng cường.
Trung Quốc đã triển khai trọn vẹn cả 4 sư đoàn không quân
và 1 sư đoàn chống máy bay đến biên giới giáp Việt Nam.
Trung QUốc xây dựng các sân bay gần biên giới
làm các cơ sở sửa chữa và là nơi trú ẩn của máy bay chiến đấu.
Bên trong lãnh thổ Việt NAm, những sân bay mới được xây dựng và sân bay cũ được sửa chữa.
Đội hâu cần Trung QUốc đã xây dựng
và nâng cấp 12 con đường của BẮc Việt.
Ở Bắc Việt, mọt lực lượng lớn được huy động
với tốc độ khẩn trương,
nhiều người nghĩ rằng Việt Nam có thể sẽ bị xâm lược sau đợt không kích.
Một triệu người được tổ chức tham gia vào hoạt động xây dựng và sửa chữa.
Trong chương trình này, họ đã đào được hàng nghị dặm hào
và hàng hàng triệu hầm cá nhân.
Ngay sau đó, ở Hà Nội cứ cách 20 feet lại có một hầm trú ẩn.
Đối với các nhà lãnh đạo Bắc Viêt, xây dựng cơ sở phòng thủ
và thu nhận vũ khí tiên tiến chỉ là một phần của chiến lươc.
Cũng có một trận đấu đá về chính trị.
There would be a major propaganda offensive... Sẽ có một cuộc tâm lý chiến lớn
để gây áp lực đối với Mỹ kiềm chế
hoặc thậm chí chấm dứt các cuộc tấn công.
Lực lượng đối lập
Trong hơn 20 năm, quân đội Mỹ có kế hoạch
ưu tiên cao nhất cho máy bay chiến lược.
Mỹ đã xây dựng một lực lượng lớn máy bay tầm xa
có thể tấn công các mục tiêu sâu trong lãnh thổ Liên Xô bằng vũ khí hạt nhân.
Khi xung đột với Bắc Việt ngày càng lớn
tư lệnh không quân chiến lược máy bay B 52
để tiến hành các đợt ném bom thông thường.
Mặc dù B 52 đã được đưa vào vị trí để sẵn sàng tấn công BẮc Việt
cuối cùng chúng đã không được triển khai trong chiến dịch Rolling Thunder.
Nhà Trắng cho rằng, những máy bay ném bom lớn có tầm bay cao
chỉ có sức hủy diệt mạnh.
Chúng được xem như là một sự leo thang rõ rệt của cuộc chiến.
Thay vào đó, những máy bay chiến thuật chính xác hơn và nhỏ hơn
sẽ tiến hành chiến dịch chiến lược chống lại Bắc Việt.
Những máy bay này cũng sẽ thực hiện nhiệm vụ thông thường của mình
là hõ trợ cho chiến dịch trên bộ ở miền Nam.
Trong khi máy bay không quân và thủy quân lục chiến thực hiện hầu hết các phi vụ tấn công
ở Nam Việt
thì máy bay hải quân tiến hành phần lớn các đợt không kích ở Bắc Việt.
Hải quân Mỹ đã đưa 16 tàu công kích
và triển khai thêm sơ lượng máy bay nhiều hơn toàn bộ máy bay của hải quân các nước khác trên thế giới cộng lại.
Cuối năm 1965, 10 tàu công kích khác được
đưa vào tham gia trong chiến dịch Rolling Thunder.
Lực lượng đặc nhiệm hạm đội 7 chịu trách nhiệm chỉ huy Lực lượng không quân hải quân tham gia chiến đấu ở Việt Nam.
Các tàu sân bay sẽ hoạt động từ 2 khu vực
được gọi là trạm Yankee và Dixie
Máy bay từ trạm Yankee sẽ tấn công các mục tiêu ở Bắc Việt và Lào,
còn máy bay từ trạm Dixie tấn công các mục tiêu ở Nam Việt.
Sư đoàn không quân số 2 chỉ huy các đơn vị không quân Mỹ.
Năm 1965, sư đoàn này hoạt động ở 2 sân bay chính ở Việt Nam và
5 sân bay ở Thái Lan.
Liên đội không quân thủy quân lục chiến số 1 sẽ triển khai máy bay chiến đấu
tại 2 sân bay khác ở phía bắc Nam Việt.
còn các liên đội B 52 thuộc tư lệnh không quân chiến lược
hoạt động từ Guam ở Thái Bìh Dương và sau đó là từ Thái Lan
cùng với các máy bay tiếp dầu từ Okinawa
Các tư lệnh không quân Mỹ không có quyền quyết định nhiều
về cách thức của cuộc chiến.
Nhà Trắng không chỉ lựa chọn mục tiêu
mà còn quyết định gần như toàn bộ mọi chi tiết khác của mỗi cuộc tấn công
Washington quy định ngày và thường là thời gian của mỗi phi vụ
có khi là cả loại bom được dùng.
Từ danh sách mục tiêu đã được thông qua, phi công Mỹ được chỉ định 1 mục tiêu
và 1 hoặc 2 sự lựa chọn khác và chỉ có mục tiêu này mới có thể được tấn công .
Điều kiện thời tiết gió mùa ở Bắc Việt
đã khiến cho một số mục tiêu không thể tấn công được theo đúng thời gian quy định của Washington.
Tư lệnh không quân không được phép thay đổi.
Vũ khí - Mỹ.
Gánh nặng lớn nhất đối với cuộc chiến của Mỹ ở Bắc Việt
đó là loại máy bay một chỗ ngồi.
F-105 Thunderchief ban đầu được thiết
là một loại máy bay ném bom hạt nhân tầm xa siêu âm.
loại máy bay này có thể chở được 5 tấn bom,
...more than a WWII B-17 flying fortress. nhiều hơn một pháo đài bay B 17.
Đối với hoạt động hộ tống máy bay chiến đấu hoặc những cuộc tấn công nhẹ,
không quân đã có máy bay F-100 Supersabre.
F-100 có thể tải được 4 tấn bom.
Máy bay này cũng được trang bị tên lửa không đối không và 4 súng 20 ly.
Đối với các phi vụ ném bom, hải quân Mỹ vẫn chủ yếu sử dụng
Skyraider.
Mặc dù máy bay này đã được đưa vào sử dụng trên 20 năm và rất chậm
song nó có khả năng tải được bom hạng nặng và rocket.
Nó cũng có sức chịu đựng lớn
và đôi lúc có thể bay lượn trên vùng mục tiêu hàng giờ.
Khi chiến dịch Rolling Thunder được mở rộng, Skyraider dần dần được thay thế
bằng A-4 Skyhawk trong phi đội tấn công của hải quân.
Skyhawk có thể chở được 4 tấn bom song bay chậm
chỉ có thể đạt tới tốc độ 670 dặm một giờ.
Các cuộc đợt kích của Skyhawk luôn được hộ tống bởi máy bay chiến đấu chữ thập
được trang bị cả súng và tên lửa không đối không.
Tháng 4/1965, các đơn vị không quân, hải quân, thủy quân lục chiến Mỹ đã triển khai những máy bay đa năng nhất
đến khu vực Đông Nam Á.
F-4 Phantom là một loại máy bay lớn
có thể bay với tốc độ 1400 dặm/ giờ
gấp 2 lần tốc độ âm thanh
Nó cũng có thể tải được 8 tấn bom.
Khi vai trò của các đơn vị Phantom được tăng cường trong cuộc chiến với Bắc Việt
ngay lập tức đã thể hiện một yếu điểm.
The F-4 had been designed to depend for self defense on its missiles, F 4 chỉ được thiết kế với tên lửa để tự vệ
mà không được gắn súng dùng trong các cuộc không kích tầm gần.
Quân sĩ - Mỹ
Các máy bay được liên đội không quân hay
liên đội hải quân Mỹ triển khai
đều phụ thuộc vào hơn 30 người điều khiển bay.
Mỗi tàu sân bay được bố trí 4000 quân nhân
cùng với máy bay, bom và các kho chứa vũ khí
Vì tàu sân bay hoạt động 24/24
nên các binh sĩ Mỹ phải làm việc với thời gian 16 giờ 1 ca.
Ở Thái Lan và Nam Việt, điều kiện sinh hoạt của các quân nhân
có dễ chịu hơn. Độ nóng và độ ẩm
ảnh hưởng lớn đến người và máy móc.
Thêm vào đó, chỉ huy cấp trên thường
đánh giá kết quả của mỗi đơn vị dựa trên số lượng các phi vụ bay mà các đơn vị thực hiện được.
Đối với cả không quân và hải quân, những binh lính có tinh thần chiến đấu cao
mới được đưa đến chiến đấu ở Bắc Việt.
Sự mất mát về người và máy bay đã xảy ra
song hệ thống phòng không của đối phương vẫn đang lớn mạnh.
Thời tiết gió mùa ở Miền BẮc còn đáng sợ hơn
pháo phòng không,
do vậy phi công Mỹ phải thực hiện nghiêm các quy tắc tham chiến.
Washington đã ra lệnh chỉ có những mục tiêu quân sự đã được khẳng định mới được tấn công
và không được tấn công vào các khu vực dân sự.
Máy bay địch phải được thị sát rõ ràng trước bị khi tấn công
vì e rằng đó là máy bay Trung QUốc
và có một loạt những hạn chế khác.
Những quy tắc này chưa từng được huấn luyện cho phi công Mỹ.
Tuy nhiên các phi công đều biết nhận thức rõ rằng, vi phạm những quy định này
Đối phương - Bắc Việt
Lực lượng vũ trang Bắc Việt gồm 400.000 quân
được bố trí thành 13 sư đoàn chính quy
Tất cả các sư đoàn đều được trang bị pháo phòng không
Các đơn vị đang xây dựng và quản lý
đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào cũng vậy.
The Navy played a role in air defense too.
Các đơn vị pháo hạm của Đông Đức được bố trí
trên biển và trên sông tiếp cận với các mục tiêu quan trọng.
Ngay từ đầu, không quân BẮc Việt đã là một quân chủng của quân đội.
Tư lệnh phòng không chịu trách nhiệm quản lý
bộ tư lệnh phòng không, một lực lượng pháo chuyên về phòng không
cũng như toàn bộ số máy bay của tư lệnh công thêm một số máy bay trực thăng khác.
Không quân cũng quản lý cả hệ thống rada cảnh báo sớm hiện đại
do Liên Xô và Trung QUốc cung cấp.
Liên đội máy bay chiến đấu duy nhất của Bắc Việt là liên đội 921
được bố trí tại sân bay Nội Bài, cách Hà Nội 40 km.
Liên đội thứ 2 theo kế hoạch sẽ được đặt tại sân bay đang xây dựng ở Kep.
Cũng có một liên đội máy bay huấn luyện và và một đơn vị máy bay ném bom Ilyushin
ở Cat Bi và Phúc Yên.
Pháo phòng không của lực lượng phòng không
được tổ chức thành 4 lữ đoàn
tập trung xung quanh những điểm quan trọng chiến lược như:
những con đường trọng yếu , ga đầu mối, trung tâm công nghiệp
quanh Hà Nội và Hải Phòng
và những con đường đường tiếp tế quan trọng sang Lào và Nam Việt
được đặc biệt bảo vệ.
Các đơn vị phòng không cũng được triển khai
dọc theo hệ thống thủy lợi của vùng châu thổ sông Hồng.
Mặc dù phòng không của Việt Nam vẫn còn yếu,
song lực lượng này đã nhanh chóng trở thành lực lượng mạnh nhất
chưa từng có ở bất cứ nơi nào.
Kế hoạch được đặt ra là sẽ phối hợp các mặt trận rada, các đồn quan sát
lực lượng pháo phòng không và máy bay đánh chặn.
Máy bay cần phải chặn đánh máy bay địch,
và nếu không thể bắn rơi thì ít nhất cũng phải ép máy bay địch
phải bay qua vùng hỏa lực mạnh.
Trong những ngày đầu của trận đánh,
khó có thể đạt được sự phối hợp chặt chẽ giữa rada,
súng và máy bay chiến đấu.
Có quá nhiều các sở chỉ huy phòng không khác nhau.
Khi tên lửa phòng không của Liên Xô được đưa vào hoạt động,
một thành phần khác được bổ sung vào hệ thống tổ hợp.
Trong một thời gian dài, phi công Bắc Việt
đứng trước nguy cơ bắn bởi lực lượng của bạn.
Vũ khí - Việt Nam
Mig 17 là lực lượng trụ cột của không quân Bắc Việt.
Đây là máy bay thế hệ cũ với tốc độ chỉ là 710 dặm một giờ
và sau đó được thay thế bằng loại Mig 21 hiện đại hơn.
Tuy nhiên Mig - 17 vẫn là một loại máy bay đánh chặn đáng gườm.
Nó là một trong những loại máy bay phản lực có khả năng cơ động tốt nhất
Lúc này, lực lượng phòng không có một số
lượng lớn pháo phòng không của Liên Xô và Trung QUốc .
Thời kỳ đầu của cuộc chiến số pháo này chỉ là những loại đơn giản có tầm quan sát quang học.
Pháo 23 và 37 ly có thể bắn 100 loạt /1phuts
nhưng có thể vươn tới mục tiêu ở tầm cao 10.000 feet.
pháo 57 ly có trần bắn 18.000 feet.
Phi công Mỹ có thể tránh loạt pháo này bằng cách bay cao hơn
tuy nhiên ở giai đoạn cuối của mỗi cuộc tấn công, máy bay phải bay thấp.
Lúc này pháo 57 ly là vũ khí đặc biệt nguy hiểm.
Vào thời điểm này Bắc Việt có 500.000 dân quân địa phương
và lực lượng này được trang bị một số lượng lớn súng máy hạng nhẹ.
Loại súng này có hiệu quả rất cao đối với những máy bay tầm thấp.
Dân quân cũng được huấn luyện cách sử dụng súng trường bắn vào máy bay địch
và truyền đạt cả về cơ hội có thể bắn cháy máy bay 1 tỷ đô la
bằng một viên đạn duy nhất.
Quân - Bắc Việt
Các loại vũ khí tiên tiến do Trung Quốc và Liên Xô cung cấp
phụ thuộc hoàn toàn vào người điều khiển và bảo dưỡng.
Bắc Việt là một nước nông nghiệp với nền công nghiệp nghèo nàn.
200 kỹ thuật viên không quân Việt Nam đã được huấn luyện ở trung Quốc
nhưng cũng chỉ vừa đủ.
Vẫn còn thiếu những người điều khiển rada giỏi.
Giai đoạn đầu cuộc chiến, phi công liên đội máy bay chiến đấu số 921
rất hiếu chiến.
Họ lao vào huấn luyện một cách điên cuồng.
Huấn luyện đại bác được ưu tiên cao nhất.
Phi công huấn luyện cách bắn mục tiêu ở độ cao 150m
tiêu diệt mục tiêu đầu tiên.
Trong mọi thời điểm, luôn chú ý đến tiếp cận mục tiêu
để phát huy khả năng cơ động nhanh nhất của MIG 17
Cùng lúc đó không quân lại huấn luyện cho lớp phi công tiếp theo
một cách cấp tốc.
Phần lớn các chương trình huấn luyện cho các phi công, người điều khiển rada, các pháo thủ
đều do các chuyên gia quân sự của trung Quốc và Liên Xô tiến hành.
Nhiều người đã tham gia chiến đấu
và thậm chí trực tiếp điều khiển hệ thống phòng thủ.
Đặc biệt hơn nữa, đằng sau chiến trường có các sĩ quan tham mưu của Trung QUốc và Liên Xô
tham gia để nâng cao hiệu quả của
từng quân binh chủng của lực lượng vũ trang Bắc Việt.
Leo thang.
Với Mỹ,giai đoạn đầu tiên của chiến dịch tăng cường đánh phá Bắc Việt
là nhằm làm suy yếu lực lượng phòng không của đối phương.
Tuần cuối cùng của tháng 3/1965
Máy bay tấn công của Mỹ từ tàu sân bay Hancock và Coral Sea
bắn phá các trận địa rada của Bắc Việt.
Pháo phòng không của Bắc Việt đã bắn trả quyết liệt
làm một số máy bay Mỹ bị bắn rơi.
Chiến dịch Rolling Thunder tăng cường
các cuộc tấn công đã củng cố lòng tin cho chính phủ Nam Việt.
QUân của chính phủ Nam Việt cũng chiến đấu hăng hái hơn.
Tuy vậy, ở Washington, tình hình xấu đi.
Ngày 29/03/1965,quân du kích của NLF
đã tiến hành cuộc tấn công liều lĩnh nhằm vào Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn.
2 lính Mỹ và 20 lính ngụy bị tiêu diệt.
Đối với nhiều người ở Washington, cuộc tấn công này
nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện các biện pháp cứng rắn hơn đối với Việt Nam.
Lúc này, bản thân tổng thông Johnson cũng thấy cần phải hành động mạnh mẽ.
Ông đã tung lực lượng thủy quân lục chiến hiện đang có mặt ở Việt Nam
vào tham chiến.
Nhiều người cho rằng sẽ có thêm nhiều quân được triển khai sau sự việc này.
Máy bay Mỹ ngay sau đó phải nhận 2 nhiệm vụ ở Đông Nam Á đó là:
tiếp tục chiến dịch đánh phá Bắc Việt
và hỗ trợ cho cuộc chiến trên bộ đang leo thang.
Mời các bạn theo dõi phần sau: P10:Không ngừng không kích tại http:/youtube.com/royalhau �