Tip:
Highlight text to annotate it
X
"Tôi với thầy giáo Tư
là bạn bè chí cốt, thân lắm,
nghĩa là bạn bè hổng mích lòng.
Còn thằng Giang á là một thời gian,
ổng gửi tôi để làm học trò.
Nhưng mà rủi may là cái số mạng của nó,
nó hổng còn tới giờ,
chớ tôi thương nó lắm.
Tôi qua tui nhậu với anh Tư á
thì nó lo mồi màng đồ dữ lắm,
thằng Giang á.
Nó nói một ngày cũng thầy
mà hai ngày cũng thầy.
Nó nói một câu tui nhớ tới giờ".
"Ai hổng thương thằng Giang.
Nó cũng đâu có phải là
cái hạng mà hổng có hiếu đâu.
Nói chung là ba mẹ con
là có mấy đứa con đều có hiếu,
chớ hổng đứa nào bất hiếu hết á.
Đứa nào cũng tốt hết,
hổng đứa nào hổng tốt.
Kể ra mợ Tư cũng có phước.
Bả cũng hiền lành
thành ra bả mới gặp bầy con vậy.
Chớ gặp con người ta coi,
đâu có giống như con mợ Tư với cậu Tư đâu".
Sau cái chết của Ba Giang,
ba tôi trở nên lầm lì ít nói,
cứ uống rượu triền miên
khiến bà tôi rất lo.
"Lúc chị Năm còn sanh tiền á,
đám giỗ hoặc tết nhất
chỉ vô chỉ cúng ông bà đó,
chỉ có nói:
Trời ơi, tui già cả cả hổng biết
mà thằng Tư nó nhậu nhẹt quá trời.
Tui chết, cậu rán cậu khuyên dùm tui.
Tui cám ơn cậu dữ lắm".
"Thì uống rượu nhiều,
là buồn thôi.
Buồn gia đình gặp nhiều cái khó khăn.
Buồn, uống rượu vậy thôi".
"Thì ổng sốc là ổng sốc cũng cái
chuyện buồn. Chuyện buồn thôi mình
hổng nói ra làm chi.
Nói chuyện buồn là con biết rồi.
Là cái chuyện đó ổng khổ nhất đó.
Ổng khổ nhất, mà má con
khổ nhiều hơn ổng nữa".
"Từ đó đến nay
thì thấy nó cũng đỡ,
thấy cũng lo,
rồi làm ăn cũng phát đạt.
Câu lạc bộ dưỡng sinh, nó cũng tích cực.
Rồi hội khuyến học, nó cũng đang chăm lo.
Về xã hội thì nói chung
là bây giờ nó khá lắm rồi.
Tao cũng khen hoài,
nói giáo Tư bây giờ hổng phải
như hồi đó đâu mấy ông ơi".
Về nỗi buồn của má tôi,
không có gì nhiều để kể,
nhưng nỗi lo thì quá đỗi nhiều.
Dù tôi đã đưa 2 đứa con
của Ba Giang xuống Cần Thơ ăn học,
nhưng má tôi vẫn ngày ngày
cặm cụi ngoài vườn
lo trồng cốc, trồng tùng,
trồng mọi thứ có thể cho huê lợi.
Hễ dư đồng nào là
đem gửi vợ tôi đồng đó,
nói góp vốn để nuôi con Ba Giang.
Từ chối cách nào má cũng không nghe,
tôi đành thay mặt 2 đứa cháu,
tiếp nhận tấm lòng trời biển của bà nội.
Trời không phụ lòng người.
Con trai Ba Giang đậu đại học!
Cả họ Lê đều mừng!
Bên vợ tôi ở Cần Thơ
cũng lên tận Đồng Tháp chia vui!
Ở thế giới bên kia,
chắc em tôi cũng mĩm cười thỏa nguyện.
“Ba muốn nếu sau ba chết rồi,
tụi con của con làm sao
thì cũng phải giúp đỡ
cho con của nó cũng được
ăn học như vậy.
Rồi lo dựng vợ, gả chồng cho nó.
Mẹ nó không trực tiếp nuôi
mà giao cho mình
thì nó phải lấy cái đạo đức của mình.
Nếu thất bại thì
mình cũng phải có một phần
chịu trách nhiệm trong đó.
Thì các con chỉ nhớ
cái điều ba mong ước lớn nhất
của ba là vậy.
Riêng thằng Minh á
thì tánh nó cũng giống ba nó,
phải rèn luyện làm sao
cho nó nghe lời bác Hai,
chú Út trong dòng họ đó,
để mà hướng cho nó
có một sự nghiệp vững vàng.
Còn Nhi Xuân, phận gái thì nó dễ rồi,
nếu coi chỗ nào được á
thì cũng sắp đặt hạnh phúc
cho nó sau này”.
Trong 25 năm theo đuổi nghề báo,
có lẽ nhờ có gien của cha
tôi làm thơ khá nhiều,
nhưng ba tôi chỉ chấm một bài.
Không hẳn vì nó hay,
mà chính vì nó
gợi nhớ đến bóng hình ông nội:
"Đập đầu cá lóc nướng trui
Xiên cây cắm đứng, đốt vùi lửa rơm.
Ra vườn hái lá rau thơm,
Nhớ người vít đất khơi nguồn nước sâu.
Gió xao xuyến ngọn tre tàu,
Măng tơ đứng đó, còn đâu bóng người.
Rượu ngon biết lấy ai mời?
Đập đầu cá lóc nướng trui, ích gì!"
Quê tôi ở miệt vườn,
gia đình sống dựa vào nghề vườn.
Thời nào, cây ấy -
thời ông nội chủ yếu là cam chanh;
thời ba tôi chủ yếu là cây xoài.
Tôi xin chuyển công tác về Đồng Tháp
đúng ngay năm lũ lớn
nên bộ phim tài liệu đầu tiên tôi làm
đã chọn đề tài này.
Qua đó, nói lên tâm tư người làm vườn.
"Như thông lệ hàng năm,
khi đám đế phất cờ báo tin nước giựt,
bầy sếu trở về trên cánh đồng năn,
đàn cá linh kéo ra sông lớn,
ba tôi lại tổ chức ăn mừng.
Xin cảm tạ ơn trời lộc nước,
công khó tiền hiền, hương hồn tiên tổ
đã phù hộ cháu con tai qua nạn khỏi,
giữ gìn được mảnh ruộng, thửa vườn.
Âu đây cũng là một cách
để ba tôi nhắc nhở cháu con
luôn khắc ghi lời cha ông thuở trước:
Dù lũ lớn đến đâu
thì đây vẫn là quê hương xứ sở của mình,
phải gắng công mà gìn giữ.
Đối đầu với lũ
thì trụ cho thật vững,
chớ buông mình mà bị nó cuốn trôi"
Cảnh trong phim quay tại vườn nhà,
đúng vào thời điểm quít đường
do Ba Giang trồng đang độ sung sức nhất,
nhưng bảo vệ nó
cũng là gian khổ nhất.
“... Và cũng quyết liệt biết bao
cuộc chống lũ ở miệt vườn.
Người ta phải dè chừng với lũ
suốt ngày đêm
trong hàng mấy tháng trời ròng rã.
Từ mọi phía, thuỷ thần lặng lẽ tấn công.
Cái gay cấn trong lòng người
thật khó bề tả xiết.
Trong từng gốc cây, trên từng chồi lá
chung đúc lại biết bao tâm huyết
của tiền nhân gửi gắm cháu con,
biết bao là hy vọng của người kế tục
gắng sức vun trồng,
biết bao là mồ hôi và óc não,
biết bao nghĩa, biết bao tình,
đâu thể để nó cho thuỷ thần huỷ diệt.
"Đối đầu với lũ
thì trụ cho thật vững,
chớ buông mình mà bị nó cuốn trôi"
Nghề vườn quê tôi đã có tự bao giờ?
Nhờ đâu mà đứng trước lũ
nó vẫn không bị mất?
Người già trong xóm thì nói:
Ông bà mình hồi trước,
mỗi khi lập vườn đều tính toán thật kỹ:
Thiên thời, địa lợi, nhân hòa -
thiếu một trong 3 cái đó
thì kể như thất bại.
Còn cháu con ngày nay,
cải tạo vườn tạp thì làm rầm rầm
mà cứ đợi nước tới trôn mới nhảy.
Lời trách đó không phải là không có lý.
Ở xóm tôi cứ 10 vườn
thì bị lũ làm chết hết 6-7 vườn,
chỉ vì không ai thật tin năm nay nước lớn.
Nghe mấy đứa nhỏ kháo nhau:
Trái quít này
sao mà giống cái não người trong sách,
tôi nghĩ thầm:
Để có được miếng vườn,
người ta phải tốn biết bao là chất xám,
phải so đo tính toán mọi bề.
Chỉ tiếc rằng khi tính,
dường như người ta đã bỏ quên
cơn lũ của đất trời
để tự buông mình trôi theo cơn lũ khác
– cơn lũ của thị trường
vốn chứa đầy khát vọng,
nhưng cũng có biết bao
là xoáy nước, sóng ngầm.
Và cái não trạng chủ quan này
đâu chỉ có ở quê tôi.
"Dù lũ lớn đến đâu
thì đây vẫn là quê hương xứ sở của mình,
phải gắng công mà gìn giữ".
Phải, lũ có thể giết chết một đời cây,
chớ đâu giết nổi được nghề vườn
cho dù nhịp điệu sông Tiền
hôm nay đã đổi khác,
chỉ có lẽ sinh tử của kiếp người
là muôn đời không đổi khác mà thôi”.
Sau khi Ba Giang mất,
Út Hải bỏ chức Phó Trưởng chi nhánh
Điện lực huyện Hồng Ngự,
xin chuyển về tỉnh làm nhân viên thường
cốt để được gần nhà.
Rồi vợ chồng Ut Hải sinh con,
đặt tên là Hải Quân.
Có thêm đứa cháu nội này trong nhà,
ba má tôi mới bớt phần quạnh quẽ.
Hải Quân càng lớn càng thông minh,
cứ suốt ngày quấn quít ông bà,
tạo niềm vui lớn cho gia đình.
Tuổi già của ba tôi, như ông Mười Triệu nói,
hướng mạnh ra hoạt động xã hội,
nhất là từ năm 1992
khi xã nhà được Huyện uỷ trả đình
và khôi phục lại lễ cúng đình.
Đặc biệt từ năm 1996,
Ban tế tự tổ chức thêm
Đại lễ giỗ tổ Hùng vương,
trở thành trường hợp duy nhất ở Đồng Tháp.
Người giữ sắc thần của
đình Tân An Trung nhận xét:
“Cúng Vua Hùng này kia đó,
chị Năm chỉ á là chỉ mừng lắm.
Chỉ khoái vấn đề đó. Tao cũng vui vẻ.
Một trăm lần, lần nào cúng đình,
chỉ cũng dọn bàn thờ hương án
chỉ ra chỉ lạy,
cầu nguyện cho đất nước thái bình,
nhân dân được an cư lạc nghiệp,
mưa thuận gió hoà.
Tao đi sát hoài tao biết.
Đi đâu tao với giáo Tư cũng đi hết trơn á.
Lạc quyên, đi vận động đồ này kia.
nào là Hội Người cao tuổi này kia.
Sốt sắng về vấn đề xã hội.
Được. Nó là tao cũng chấm”.
Xin đặc biệt tri ân
những ai đã tạo ra phong trào
tập luyện dưỡng sinh,
giúp người già trong xóm
giữ được sức khoẻ,
trong đó có ba má tôi.
Ở tuổi “xưa nay hiếm”
mà không có bệnh
quả là điều đáng mừng.
Nhưng, có lẽ nào chúng tôi tiếp tục
để hai ông bà phải
tối ngày quần quật ngoài vườn?
Sau nhiều lần tranh thủ thuyết phục,
rốt cuộc ba tôi cũng đồng ý
giao vườn xoài cho Ut Hải quản lý,
còn ông chỉ đóng vai cố vấn mà thôi.
Mùa xoài đầu tiên, tuy em tôi
chưa can dự gì nhiều,
nhưng có lẽ nhờ Ba Giang phù hộ
nên trúng mùa, trúng giá,
khiến bà con cả họ đều vui.
“Ba cháu á hén, tánh tình thì
hồi nào tới giờ được lắm.
Làm ăn kinh tế thì trao đổi qua lại.
Biết thuốc gì chỉ thuốc nấy vậy thôi.
Thấy năm nay thì ba cháu
làm ba cái xoài,
để lại cho thằng Hải
coi bộ có lý hơn ổng rồi à”.
Út Hải sinh năm 1972,
lớn lên trong thời kỳ bao cấp
nên tuổi thơ vất vả hơn
2 anh rất nhiều.
Tánh nó chịu thương chịu khó,
luôn coi việc người khác như việc của mình,
cho nên trong những năm
xuống Cần Thơ học đại học,
rất được lòng cha mẹ vợ của tôi.
Đặc biệt, có má Bảy
– là người giúp việc lâu năm trong nhà –
nhận nó làm con nuôi.
Thâm tình giữa nó và má Bảy
vẫn gắn bó bền chặc cho đến bây giờ,
cho dù nó đã trở về Đồng Tháp,
má Bảy đã chuyển vô
Trung tâm Nuôi dưỡng người già.
Tôi thường nói với các con các cháu:
Đó là cái “duyên sống” của chú Út ,
lớn lên hãy cố gắng học hỏi.
Đã 8 năm sau năm 2000,
cái khoảng trống trong gia đình
do Ba Giang để lại
mới dần được lấp đầy.
70 năm cuộc đời của ba tôi
mới bắt đầu ánh lên
những sắc màu tươi sáng.
Ông dặn dò tôi và Út Hải như vầy:
“Mầy thì ở Cần Thơ,
có mình nó ở đây,
tức là nó phải lo phụng dưỡng tổ tiên
mấy cái lễ cúng cũng như mình cúng.
Phần hương hỏa thì
từ cái năm nay đó,
năm làm thất tuần này đó,
thì cũng giao hết cho nó hưởng.
Nó có huê lợi cho nó lo cúng kiến này nọ.
Có thể chia lễ giỗ ra làm 2,
để một đứa cúng phân nửa cũng được,
nếu dồn cho một đứa cúng cũng được,
miễn có cúng kiến ông bà cho hoàn chỉnh thì thôi”.