Tip:
Highlight text to annotate it
X
Chào mừng các bạn đến với phần cuối của loạt phim khoa học, 100 khám phá vĩ đại nhất.
Tôi là Bill Nye và đây là một số bộ hóa thạch khủng long
thuộc bảo tàng lịch sử tự nhiên Carnegie.
Các bạn biết đấy, chỉ trong thời lượng 8 tiếng của chương trình, chúng tôi đã giới thiệu toàn bộ 100 phát hiện vĩ đại nhất
về sinh học,
vật lý,
hóa học,
y học,
di truyền học,
địa chất
thiên văn học
và sự tiến hóa.
Trong những thế kỷ gần đây, con người thực hiện nhiều khám phá khoa học,
những bước tiến tri thức quan trọng về thế giới quanh mình.
Các bạn tự hỏi, tiêu chí chọn lựa 100 khám phá vĩ đại nhất là gì? Ai đảm nhận công việc này?
Vâng, chính là chuyên viên của kênh khoa học cùng với các giáo sư đại học, nhà nghiên cứu và chuyên gia thuộc lĩnh vực khoa học.
Các bạn sẽ tiếp tục thắc mắc, thế nào mới được xem là một chuyên gia?
Thật khó để miêu tả nhưng trong phần này, các bạn chính là chuyên gia.
Ngay từ khi chúng tôi bắt tay thực hiện chương trình này, mọi người thường hỏi:
"Phát hiện vĩ đại nào đứng thứ nhất, thứ 9 hay 99?".
Với sự giúp đỡ của người bạn của chúng tôi, tạp chí Discovery tổ chức một cuộc bình chọn,
"Theo bạn, khám phá nào bạn nghĩ xứng đáng nằm trong top 10?".
Hãy hướng về phía trước và bật to tiếng lên.
Chúng tôi bắt đầu giới thiệu 10 khám phá khoa học vĩ đại được các bạn bình chọn.
Chúng tôi sẽ đếm ngược 10 phát hiện khoa học vĩ đại nhất.
Dưới đây là khám phá đầu tiên, đứng ở vị trí thứ 10 của danh sách.
Đây là đếm ngược, chứ không phải đếm xuôi.
Khám phá đầu tiên, và tôi có thể khái quát nó trong 2 từ, Isaac Newton.
Gắn liền với sự nổi tiếng, đáng kính, có phần xung khắc, Ngài Isaac,
một thiên tài đã đóng góp biết bao công sức cho quá trình phát triển tri thức của con người về thế giới quanh mình.
Bây giờ hãy nghĩ về nó, một trí tưởng tượng vượt bậc để nhận ra rằng,
quả táo rơi xuống, không chỉ do trái đất kéo xuống
mà quả táo cũng tác động một lực kéo nhẹ lên trái đất.
Isaac Newton là người đầu tiên hiểu được điều đó.
Nhưng tầm nhìn và trí tuệ của các bạn không chấp nhận, các bạn bị mê hoặc bởi lực hấp dẫn - một loại lực kéo vô hình nghịch đảo
đủ mạnh mẽ để kiểm soát không chỉ bụi vũ trụ mà toàn thiên hà.
Không, thưa Ngài Isaac. Ông còn có những quan điểm sâu sắc khác.
Các định luật về chuyển động.
Định luật chuyển động của Newton.
Với nhiều người, Isaac Newton là một nhà vật lý học
thông qua phần lớn tài liệu của ông, bao gồm cả khám phá thứ 2, định luật chuyển động.
Định luật giải thích sự chuyển động của tất cả vật chất.
Nhằm hiểu hơn về 3 định luật này, hãy quan sát môn khúc gôn cầu trên băng.
Thật đơn giản, anh đánh vào quả cầu và nó trượt đi trên mặt băng.
Anh có thể thấy bề mặt trơn nhẵn có bộ bám rất ít.
Khi anh dùng cây gậy đánh vào quả cầu, nó tăng tốc
từ trạng thái đứng im sang trạng thái chuyển động, được giải thích và tính toán bằng định luật thứ 2.
Định luật thứ 3 nói rằng khi anh sử dụng cây gậy đánh lên quả cầu, cây gậy cũng nhận lại một phản lực từ cây gậy.
Giống như một vận động viên khúc gôn cầu húc vào đối phương,
nó có thể đập vỡ các khớp xương của anh ta.
Định luật chuyển động của Newton là một quan điểm táo bạo về cơ chế hoạt động của vạn vật.
Chúng trở thành nền tảng của ngành vật lý học cổ điển.
Bình chọn cho vị trí thứ 9 của các bạn là một vật thể vô hình.
Vi sinh vật.
Đầu thế kỷ 17, kính hiển vi cơ bản đã được sử dụng rộng khắp châu Âu.
Giới khoa học nhìn chung đều bị thu hút bởi sự khuếch trương của thế giới vô cùng nhỏ bé.
Sau đó, vào năm 1665, nhà khoa học người Anh, Robert Hooke
quan sát thấy vật thể hình hộp nhỏ trong chiếc nắp chai màu bạc và gọi nó là "tế bào" - "cell"
bởi chúng gợi đến căn phòng nhỏ - "cell" mà những nhà tu hành sinh sống.
Vi sinh vật.
Antoine Leeuwenhoek là một thương gia người Hà Lan có niềm đam mê với khoa học.
Sau khi nghiên cứu về kính hiển vi của Hooke, ông quyết đinh tự làm một cái.
Xin chào tiến sỹ Gaul.
Để tìm hiểu điều gì xảy ra tiếp theo, tôi ghé thăm tiến sỹ Joseph Gaul,
nhà sinh vật vi sinh tại Viện Carnegie thuộc Baltimore, Maryland.
Ông Antoine Leeuwenhoek đã phát hiện ra cái gì?
Leeuwenhoek khám phá ra nhiều thứ, nhưng phát hiện nổi tiếng nhất của ông là động vật nguyên sinh.
Đó là những động vật đơn bào sinh sống dưới nước.
Ông ta tìm thấy chúng như thế nào?
Ông sử dụng một chiếc kính hiển vi tự chế.
- Anh có muốn xem thử không? - Ồ, vâng.
Ông có một chiếc kính hiển vi Leeuwenhoek sao?
Không phải nguyên bản, chỉ là bản sao mô phỏng chiếc kính của Leeuwenhoek.
Nó gồm 2 mảnh đồng và một miếng kính nhỏ, có tác dụng như thấu kính.
Khi sử dụng, anh đặt mẫu vật lên cây ghim ở đây.
Và đưa mắt lại gần thấu kính từ phía bên này, anh có thể trông thấy mũi ghim.
Để mẫu vật côn trùng hay gì lên chiếc ghim đó.
- Anh muốn thử chứ? - Ồ, vâng.
- Nó nặng nhỉ? - Do miếng đồng đấy.
Năm 1675, sau khi Leeuwenhoek sử dụng chiếc kính hiển vi của mình để kiểm tra một mẫu nước,
ông phát hiện ra một thứ gì đó vô cùng đặc biệt.
Một thế giới sinh vật con người chưa bao giờ nhìn thấy.
Vi sinh vật.
- Bằng dụng cụ, với tất cả sự tôn trọng, bằng thiết bị cổ xưa này sao? - Đúng thế.
- Ông đã phát hiện ra động vật đơn bào. - Đúng thế.
Nhưng ông ta nổi tiếng nhờ tìm thấy động vật nguyên sinh,
vi khuẩn
và tinh trùng.
Thật tuyệt vời.
Nó chỉ mới là giai đoạn nền tảng, chủ yếu tập trung vào thiết bị.
Anh chỉ cần quan sát mẫu vật.
Vậy là xong.
Họ có biết những gì họ quan sát thấy không? Ý của tôi, họ hiểu không.
Tôi nghi ngờ rằng họ có thật sự hiểu điều họ quan sát được theo quan điểm cận đại không.
Họ bị ấn tượng bởi tất cả những thứ nhỏ bé sống dưới nước này.
Vào thời điểm đó, con người không biết rằng có vô số sinh vật dưới nước.
Tôi không thể ngờ nó lại nhỏ, tinh tế
và mỏng manh, thật thanh nhã.
Nhất là so với kích thước bàn tay.
Những gì nhìn thấy trên đầu ghim đã thay đổi thế giới. Thật sự như vậy.
Nó là một sự khai mở cho tri thức của chúng ta về thế giới tự nhiên.
Rằng ngoài đó, không phải chỉ là những vật thể chết, mà tràn ngập sự sống.
Nếu bạn giống như tôi, người vô cùng yếu ớt,
bạn có thể đã chết nếu không có thuốc kháng sinh.
Có vài lần, trong đời, tôi mắc bệnh rất rất nghiêm trọng
và các phân tử này đã giúp tôi chiến thắng bệnh tật.
Các bạn phải chọn lựa khám phá nổi tiếng nhất, và đây là một sự lựa chọn dễ dàng nhất.
Bởi nó có tác động mạnh mẽ, penicillin đã thay đổi cả thế giới.
Tôi cũng là một người bầu chọn cho nó.
Kháng sinh Penicillin.
Thế chiến thứ 1, hơn 10 triệu người chết, nhiều trong số đó do nhiễm trùng vết thương.
Sau chiến tranh, nhiều nhà nghiên cứu tập trung tìm kiếm phương pháp nhằm đẩy lùi bọn vi khuẩn xâm lược.
Bác sỹ người Scotland, Alexander Fleming, là một trong những nhà khoa học này.
Trong khi nghiên cứu khuẩn tụ cầu, ông nhận thấy có vật gì không bình thường đang phát triển trong đĩa cấy.
Một khối Penicillin.
Ông phát hiện vi khuẩn xung quanh khối đó đã chết,
khiến ông suy đoán nó tiết ra một chất có thể tiêu diệt vi khuẩn.
Ông đặt tên cho nó là chất Penicillin.
Trong những năm tiếp theo, Fleming cố gắng trích xuất Penicillin nhằm áp dụng vào việc điều trị nhiễm trùng,
Nhưng ông không thành công, nên cuối cùng phải từ bỏ.
Tuy nhiên, thành quả của ông là vô giá.
Năm 1935, nhà khoa học Howard Florey và Ernst Chain thuộc trường đại học Oxford
thích thú với công việc đặc biệt chưa hoàn chỉnh của Fleming nên quyết định tiếp tục nghiên cứu.
Lần này, họ đã tinh chế Penicillin nguyên chất thành công.
Và vào năm 1940, nó được đưa vào thử nghiệm.
8 con chuột bị tiêm khuẩn tụ cầu.
Sau đó, họ tiếp tục tiêm Penicillin cho 4 con trong số đó.
Họ có ngay kết quả chỉ trong vài giờ.
Cả 4 con chuột không được điều trị với Penicillin đều chết,
nhưng 3 trong 4 con sử dụng Penicillin vẫn sống sót.
Nhờ có Fleming, Florey và Chain, thuốc kháng sinh đầu tiên trên thế giới ra đời.
Nó là một phương thuốc thần kỳ, giúp chữa khỏi nhiều căn bệnh từng gieo rắc nỗi đau khổ
như sốt thấp khớp, sốt ban đỏ, giang mai và bệnh lậu.
Những căn bệnh mà ngày nay, không thể giết chết chúng ta.
Vị trí tiếp theo vẫn thuộc chủ đề về y học, thuyết vi trùng.
Thuyết vi trùng.
Một số khám phá như tia X dường như là sự ngẫu nhiên,
trong khi số khác, như phát hiện tiếp theo của chúng ta, được phát triển xây dựng suốt một thời gian dài bởi nhiều nhà khoa học.
Vienna, năm 1846, thành phố của cái đẹp và văn hóa.
Nhưng bênh viện đa khoa Vienna lại là một bóng ma chết chóc.
Nhiều phụ nữ đến đây sinh con đều bị chết, do sốt hậu sản, nhiễm trùng tử cung.
Khi bác sỹ Ignaz Semmelweis đến làm việc tại bệnh viện, ông đã được cảnh báo mức độ nghiêm trọng của vấn đề,
đồng thời ông cũng quan tâm đến một sự khác biệt bí ẩn.
Họ có 2 khu, các sản phụ được đưa đến một khu bởi bác sỹ.
và khu kia, những nữ hộ sinh nhận trách nhiệm này.
Semmelweis nhận thấy, tại khu bác sỹ giao nhận trẻ sơ sinh, 7% sản phụ chết do sốt hậu sản
và bên khu do nữ hộ sinh đảm trách, con số này là 2%.
Ông cảm thấy lạ, bởi các bác sỹ được đào tạo tốt hơn, nên tất nhiên, họ chăm sóc bệnh nhân tốt hơn.
Semmelweis quyết phải xác định được điều gì đang xảy ra.
Ông phát hiện có một khâu quan trọng các bác sỹ thực hiện, còn nữ hộ sinh thì không,
là khám nghiệm tử thi sản phụ sau khi chết.
Phải chăng họ quay lại giao nhận trẻ sơ sinh cũng như sản phụ mà không rửa tay,
giống như anh chàng sửa xe sau khi hoàn thành chiếc xe này lại tiếp tục thao tác trên chiếc xe khác, bỏ qua việc rửa tay, bởi anh ta thấy không việc gì phải tốn công như thế.
Semmelweis tự hỏi, liệu bác sỹ có lưu giữ vật thể vô hình nào trên tay, sau đó truyền qua cho bệnh nhân và gây ra cái chết cho họ.
Để tìm hiểu, ông tiến hành một bài kiểm tra.
Ông yêu cầu tất cả bác sỹ phải rửa tay trong dung dịch chlorine.
Và đột nhiên, tỷ lệ chết thai sản giảm xuống 0, thấp hơn cả bên khu nữ hộ sinh.
Với bằng chứng này, Semmelweis kết luận loại bệnh truyền nhiễm sốt hậu sản chỉ có một nguyên nhân duy nhất.
Nếu bạn hạn chế nguồn gây bênh, nó sẽ không xuất hiện.
Nhưng vào năm 1846, chưa ai biết đến mối liên kết giữa vi khuẩn và bệnh truyền nhiễm.
Kết quả, quan điểm của Semmelwies bị bác bỏ.
Phải mất thêm 10 năm nữa trước khi một nhà khoa học khác quan tâm đến vi trùng.
Ông là Louis Pasteur.
3 trong số 5 người con của Pasteur đã chết do bệnh thương hàn,
có thể là nguyên nhân khiến ông quyết tâm tìm ra nguyên nhân của các căn bệnh truyền nhiễm.
Nghiên cứu của Pasteur nhân danh ngành công nghiệp bia rượu, giúp họ đi đúng hướng.
Pasteur cố gắng tìm hiểu điều gì đang tác động xấu đến hoạt động sản xuất rượu của đất nước.
Ông phát hiện ra rằng rượu hư bị nhiễm một loại vi sinh vật, vi trùng
và chính vi trùng khiến cho rượu chua.
Nhưng chỉ với phương pháp xử lý nhiệt đơn giản, ông chỉ ra vi trùng có thể bị tiêu diệt và rượu được bảo quản.
Khi ông đã tìm được nguồn gốc của các căn bệnh truyền nhiễm, Pasteur biết phải bắt đầu từ đâu.
Vi trùng, ông khẳng định nó là nguyên nhân gây ra những căn bệnh đặc biệt và ông chứng minh điều đó thông qua hàng loạt thí nghiệm
để dẫn đến khám phá vĩ đại của ông, thuyết vi trùng.
Thuyết vi trùng đánh dấu sự khởi đầu của nền y học hiện đại.
Thuyết vi trùng có một quan điểm trọng tâm, rằng một vi sinh vật là căn nguyên của một căn bệnh ở nhiều người.
Ngày nay, nó dường như là một điều hiển nhiên nhưng đây là khái niệm mang tính cách mạng nhất trong y học.
Chúng ta thừa hưởng đặc tính từ cha mẹ. Tôi biết các bạn đang nghĩ về tính di truyền bởi nó là khám phá đứng ở vị trí thứ 6.
Quy luật kế thừa.
Giữa thế kỷ 19, một tu sỹ Augustine có tên Gregor Mendel
nảy ra nhiều câu hỏi về sự kế thừa sinh học trong quá trình thực hiện một loạt thí nghiệm.
Mendel bản chất rất tò mò và yêu thiên nhiên.
Ông thích thú nghiên cứu nhiều lĩnh vực, từ thực vật đến khí tượng và cả thuyết tiến hóa.
Làm việc trong một tu viện tại Cộng Hòa Séc ngày nay,
ông bắt đầu công trình nghiên cứu của mình bằng cách lai tạo nhiều giống đậu Hà Lan với nhau.
Sau đó quan sát những đặc tính trên thế hệ con.
Tại sao lại chọn đậu Hà Lan? Ông nói, đơn giản chỉ vì nó thú vị.
Ông nhận thấy, khi lai giống đậu trơn với giống đậu nhăn,
cho ra thế hệ đậu con trơn, chứ không trộn lẫn 2 đặc tính như ông nghĩ.
Tuy nhiên, khi ông lai thế hệ đậu con trơn với nhau, hiện tượng tạp lẫn xuất hiện.
Thế hệ thứ 2 có cả trơn và nhăn.
Ông tiếp tục thí nghiệm, cố gắng tìm hiểu cơ chế sinh học nào gây nên sự biến mất của một loại đặc tính nhất định ở thế hệ đầu tiên
và chỉ xuất hiện trở lại vào thế hệ thứ 2.
1 ngày sau, ông đếm số lượng hạt đậu ở thế hệ 2 có đặc điểm vỏ nhăn,
tỷ lệ chính xác 1/4.
Điều Mendel quan sát được trong các thí nghiệm của mình là hiện tượng sinh học mà ngày nay, được gọi là tính trội và sự phân ly.
Nhưng chỉ có Mendel biết điều đó.
Tuy nhiên, thí nghiệm của ông tạo ra một số hiện tượng lạ mà ông ghi nhận lại là: "khiến mọi người phải chú ý đến ghi chép của tôi".
Chú ý đến kết quả khi ông lai nhiều giống đậu Hà Lan với nhau.
Đặc tính lặn chỉ thể hiện trong 1/4 thế hệ đời thứ 2.
Đối với Mendel, đây chính là bước ngoặt.
Lần đầu tiên ông có thể chứng minh các đặc điểm của thế hệ tiếp theo được thừa hưởng theo một tỷ lệ nhất định.
Nói cách khác, có một quy luật cố định ảnh hưởng đến tính di truyền.
Với quan điểm này, Mendel đã tạo nên khám phá vĩ đại đầu tiên trong ngành khoa học di truyền.
Mỗi đặc tính được kế thừa đều bị quyết định bởi cặp "yếu tố", theo cách nói của ông.
Mỗi cặp bố mẹ xây dựng một nhân tố cho mỗi đặc tính.
Một số yếu tố nhất định chiếm ưu thế, số khác lại có xu hướng lặn đi, phụ thuộc vào sự kết hợp giữa các yêu tố di truyền.
"Yếu tố" của Mendel được gọi là gien,
đặc điểm, một từ trong thuật ngữ của Mendel, được dùng để mô tả đặc tính bị tác động của một gien độc lập đôi khi tái xuất hiện trong 1/4 thế hệ đời con cháu,
những đặc tính có thể không có hại như tàn nhang, hay khả năng quặt âm lưỡi.
Nhưng cũng có thể dẫn đến nhiều căn bệnh nghiêm trọng như xơ nang hoặc rối loạn biễn diễn Tay-Sachs.
Tất cả các kiến thức đó đều đến từ nghiên cứu đậu Hà Lan bình thường.
Chào mừng trở lại, chúng ta đang đếm ngược top 10 trong 100 khám phá vĩ đại nhất lịch sử.
"Lịch sử" ở đây là những điều chúng ta biết.
Phát hiện tiếp theo vô cùng cơ bản, chúng ta nhìn thấy mỗi ngày
và thật sự khó tin rằng phải mất quá lâu để con người nhận ra hiện tượng này.
Chúng ta có thể biết được rằng trái đất không phải là tâm của vạn vật bằng cách nào.
Nó và cả chúng ta đang chu du khắp không gian.
Trái đất chuyển động.
Trái đất chuyển động.
Năm 1543, một người đàn ông 70 tuổi đang hấp hối.
Ông là Nicolaus Copernicus. Một bác sỹ, luật sư
nhưng gần 40 năm cuộc đời, ông đắm chìm trong vai trò của một nhà thiên văn học nghiệp dư.
Sự theo đuổi khiến ông phải chống lại một trong những niềm tin cơ bản và thiêng liêng nhất.
Khi còn trẻ, Copernicus từng nghiên cứu thiên văn
và nhận thấy rằng thuyết Địa Tâm của người Hy Lạp không thể dự đoán được sự di chuyển của các hành tinh.
Ông bắt đầu đặt ra câu hỏi liệu trái đất có chuyển động.
Đây chính là ý tưởng của Copernicus.
Với mặt trời làm trung tâm.
Và tất cả hành tinh đều di chuyển xung quanh theo một quỹ đạo, không dừng lại.
Copernicus nhận thấy rằng chuyển động của hành tinh có thể được giải thích hợp lý hơn nếu mặt trời làm trung tâm của Thái dương hệ.
Còn trái đất xoay quanh nó giống như một hành tinh bình thường.
Đó là một quan điểm mang tính cách mạng sâu sắc.
Mặc dù có rất ít bằng chứng chứng minh cho thuyết Nhật tâm, nhưng ông vẫn viết cuốn sách này, nêu lên học thuyết của mình.
Chính quan điểm đó, cuốn sách đó đã thay đổi thế giới.
Vâng, bởi nó biến trái đất thành một hành tinh và đưa mặt trời vào tâm.
Nếu anh không sử dụng luận điểm này, anh không thể phát triển môn vật lý vũ trụ.
Khi những trang cuối cùng in xong, cuốn sách được mở ra chương đầu
và đưa đến cho ông ngay ngày Copernicus qua đời.
Theo tôi, ông đã bị tê liệt cục bộ sau một cơn đột quỵ
nhưng vẫn trụ lại cho đến khi chắc chắn cuốn sách được hoàn thành.
Bình chọn cho vị trí thứ 4 của các bạn dành cho bảng tuần hoàn các nguyên tố.
Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học.
Năm 1869, một giáo sư hóa học người Nga, Dmitry Mendeleev đang cố gắng chuẩn bị giáo án cho sinh viên.
Ông tự hỏi làm sao có thể giải thích rõ ràng nhất 63 nguyên tố được biết vào thời gian đó.
Dựa trên những công thức, ông gán một tấm thẻ cho mỗi nguyên tố.
Trên mỗi tấm thẻ, ông viết lên tên nguyên tố đó, cấu trúc nguyên tử, đặc tính tiêu biểu và sự tương đồng với các nguyên tố khác.
Sau đó ông đặt tất cả tấm thẻ lên bàn như trò chơi bài thẻ và bắt đầu sắp xếp chúng, tìm kiếm mô hình thích hợp.
Đây chính là thời khắc vĩ đại.
Điều đặc biệt gì đó dần xuất hiện.
Các nguyên tố được phân vào 7 cột.
Tất cả nguyên tố trong nhóm đều có tính chất hóa lý tương tự nhau.
Medeleev đã khám phá ra bảng tuần hoàn nguyên tố, một bảng chỉ dẫn cho thấy mối liên hệ giữa các nguyên tố với nhau.
Một bảng chỉ dẫn chính xác đến mức Mendeleev tin rằng mình có thể xác định sự tồn tại và đặc tính của 3 nguyên tố chưa được tìm thấy.
Boron, nhôm và silic.
Cuối cùng, những nguyên tố này đều được phát hiện.
Và chứng minh Mendeleev đã đúng.
Có một chút tranh cãi vì nhà hóa học người Đức, Lothar Meyer cũng có ý tưởng tương tự.
Nhưng Meyer đã không có đủ can đảm để dự đoán.
Nhà khoa học người Đức này cũng đã nêu lên ý tưởng về tính tuần hoàn.
Tuy nhiên, ông không thích công việc dự đoán giống như Mendeleev.
Do đó, chúng ta có thể thấy được sức mạnh của lối suy nghĩ táo bạo.
Để mọi người có thể chấp nhận một học thuyết, không có gì hiệu quả hơn bằng cách đưa ra một dự đoán không rõ ràng.
- và nó trở thành sự thật. - Đúng vậy.
Bảng tuần hoàn chính là hình ảnh liên kết chúng ta với hóa học.
Hãy đi đến bất kỳ lớp hóa học nào, và anh sẽ thấy.
Tại sao bảng tuần hoàn nguyên tố lại có ý nghĩa như vậy?
Nó thay đổi cách mọi người học và nắm bắt các nguyên tố mãi mãi.
Bảng nguyên tố hóa học giống như những nốt nhạc trong các bản sonata của Beethoven.
Nhầm tỏ lòng tôn kính đến Mendeleev, tên của ông đã được đặt cho bảng tuần hoàn.
Nguyên tố thứ 101 cũng đặt theo tên ông, Mendelevium - Md.
Không chỉ những nhà hóa học mới quan tâm đến bảng tuần hoàn. Tôi nghĩ anh cũng có một bảng.
- Vâng, tôi có mang theo bên mình. - Cho tôi xem nào. - Ông không biết đâu,
nhưng tôi sử dụng nó rất nhiều đấy.
- Thử xem nhé.
Nhỏ quá nhỉ. Tôi sẽ thử anh một chút nhé. Nguyên tố nào đứng dưới Nito trong bảng tuần hoàn?
- Nito có số hiệu nguyên tử là 7. - Đúng.
Chờ một chút nào, đó là lưu huỳnh.
- Không, sai rồi. - Vậy tôi phải xem nó thường xuyên hơn.
- Nó là Photpho. - Ôi, Photpho, Photpho có số hiệu nguyên tử là 15.
Đúng thế, anh phải cộng thêm 8 số.
Vâng, đó là lý do tại sao tôi luôn mang theo nó. Tôi không thể nhớ được.
7 cộng 8 là 15, Photpho. Cách tính là như vậy, tôi hiểu rồi.
Chào mừng đến với chương trình top 10 trong 100 khám phá vĩ đại nhất của kênh khoa học.
Bạn quay trở lại đúng thời khắc quan trọng.
Chúng tôi đang nhắc đến người đầu tiên đặt nghi vấn cho nhận thức chung về đặc tính cố định và đều đặn của dòng thời gian.
Nó không phải là chiếc thuyền buồm lặng lẽ trôi đi êm ả.
Thời gian, một phần của không gian, bay vút xuyên qua vũ trụ là những nguồn sức mạnh cơ bản.
Hiện tượng tự nhiên được nhận ra bởi người có tới 2 khám phá nằm trong top 10 những khám phá vĩ đại nhất.
Albert Einstein.
E=MC2.
E=MC2 có lẽ là phương tình nổi tiếng nhất.
Nó khởi nguồn từ đâu?
Einstein sử dụng tính tương đổi để chỉ ra rằng khi anh tiệm cận tốc độ ánh sáng sẽ xảy ra những biến đổi kỳ lạ.
Thời gian trôi chậm, không gian co rút lại và khối lượng tăng lên.
Di chuyển càng nhanh, khối lượng càng tăng.
Năng lượng của sự vận động làm cho khối lượng tăng. M có nguồn gốc từ năng lượng vận tốc.
Đây là cách ông lập luận. Ông có một cây đèn chớp, phát ra một chùm sáng,
ông biết chính xác năng lượng phát ra từ đèn chớp là bao nhiêu, nhưng chiếc đèn chớp nhẹ đi.
Đèn chớp giảm trọng lượng nhờ phát ra chùm tia sáng.
Do đó E của tia sáng có nguồn gốc từ M của đèn chớp với tỷ lệ là C bình phương. Đó chính là nguyên lý của phương trình.
Phương trình cũng cho thấy nguồn năng lớn cũng có thể ẩn dưới những vật thể nhỏ bé.
Giả dụ tôi ném trái banh bóng chày, anh bắt ngay lập tức lúc nó còn rất nhiều năng lượng.
Khi nó đứng yên sẽ như thế nào? Einstein tính toán phương trình,
và ông phát hiện ra thậm chí ngay cả khi đứng yên, nó vẫn có rất nhiều năng lượng.
Thực tế, nếu anh giải phương tình, anh sẽ thấy nó sở hữu nguồn năng lượng khủng khiếp.
Mặc dù tàu lượn siêu tốc, vào lúc đứng trên đỉnh, động lượng hầu như là 0, nhưng nó vẫn căng tràn năng lượng.
Nguồn năng lượng tiềm ẩn được chuyển hóa thành động lượng khi tàu lượn lao thẳng xuống dốc.
Điều Einstein đề cập đến chính là phần năng lượng cốt lõi của vấn đề.
Ngay cả một hạt proton cũng sở hữu một năng lượng khổng lồ.
Khám phá của Einstein là bước nhảy vọt đối với khoa học,
một cái nhìn rõ ràng đầu tiên về sức mạnh nguyên tử.
Phát hiện vĩ đại đứng ở vị trí thứ 2, thuyết tương đối rộng.
Thuyết tương đối rộng.
Nhờ một nhân viên thủ thư trầm ngâm trong văn phòng bằng sáng chế Thụy Sỹ, tác giả của khám phá tiếp theo của chúng ta đã cho thấy vũ trụ là nơi bí ẩn vô cùng kỳ lạ.
Người nhân viên đó chính là Albert Einstein.
Trong những năm đầu thế kỷ 20, ông cảm thấy vô cùng bối rối, giống như cộng đồng khoa học
về quỹ đạo của sao Thủy.
Mặc dù định luật hấp dẫn Newton có thể tính toán chính xác chuyển động của hành tinh,
nhưng nó không đúng khi áp dụng cho Thủy Tinh.
Vấn đề nằm ở điểm cận nhật của sao Thủy, vị trí nằm gần mặt trời nhất.
Cứ mỗi thế kỷ, điểm cận nhật của Thủy Tinh tiến về trước một chút.
Sự thay đổi đó khiến phương trình Newton không thể tính toán được.
Chàng thanh niên Einstein đã đề xuất học thuyết táo bạo và kinh ngạc của mình để giải thích vấn đề quỹ đạo sao Thủy.
Michio Kaku là nhà vật lý lý thuyết tại trường đại học thành phố New York.
Và Newton nói rằng lực hấp dẫn truyền qua vô hạn trong không gian. Đó chính là điều khiến Einstein nghĩ có điểm sai sót trong học thuyết của Newton.
Ông muốn một học thuyết có thể giải thích lực hấp dẫn, có khả năng lý giải các chuyển động gia tốc, zigzag và tròn.
Có những dạng sóng trọng lực. Lực hấp dẫn cần có thời gian để tác động lên chúng.
- Lan truyền. - Để truyền đi.
Vậy nếu mặt trời biến mất, cũng cần đến 8 phút để chúng ta nhận ra, lực hấp dẫn cũng di chuyển cùng vận tốc với ánh sáng.
Einstein cần một bức tranh mới để lý giải rằng
không gian bản thân nó cũng bị uốn cong, và đó là lý do tại sao các hành tinh chuyển động.
Ông tin khái niệm không gian cong của mình có thể giải thích quỹ đạo của sao Thủy.
Einstein đặt tên cho quan điểm của mình là thuyết tương đối rộng.
Tưởng tượng có một tấm lưới đệm và một quả banh Bowling được đặt ngay giữa tấm lưới đó.
Quả banh làm cho tấm lưới lún xuống.
Và tiếp tục bắn một viên bi vào xung quanh tấm lưới đệm.
Viên bi sẽ chuyển động quanh trái banh.
Từ trên nhìn xuống, thuyết Newton nói rằng có một lực kéo vô hình tức thời kéo viên bi xuống với trái banh Bowling.
Nhưng thuyết Einstein nói rằng không có lực kéo nào cả,
đó chính là do tấm lưới đệm.
Vậy tại sao viên bi chuyển động quanh trái banh?
Bởi tấm lưới đệm tác động lên viên bi.
Đó là lý do tại sao tôi ngồi lên chiếc ghế này. Không phải trọng lực kéo anh xuống mà bởi vì không gian đẩy tôi về phía trái đất.
Quan điểm không gian bản thân nó cũng bị tác động bởi khối lượng quá xa lạ với đại đa số nên khó được chấp nhận.
Và hiện tượng nhật thực đem đến cho giới khoa học cơ hội hoàn hảo để kiểm chứng học thuyết của Einstein.
Nhiều bức ảnh chụp lại khoảng không gian đằng sau các ngôi sao trước và sau nhật thực.
Những hình ảnh này sau đó được so sánh với các bức ảnh chụp trong thời gian nhật thực.
Bức ảnh cho thấy vị trí của những ngôi sao trong thời gian nhật thực hơi dịch vào một chút
do ánh sáng từ các ngôi sao bị bẻ cong khi đi qua trường hấp dẫn của mặt trời.
Thuyết tương đối rộng của Einstein hoàn toàn chính xác.
Khám phá của ông làm chấn động cả thế giới.
Thuyết tương đối rộng gây sửng sốt cho tất cả mọi người từng được xem qua dãy phương trình này.
Dãy phương trình chỉ dài 1 inch
và chúng giải đáp những thắc mắc muôn đời đeo đuổi chúng ta,
ngay từ lần đầu tiên chúng ta ngước nhìn lên bầu trời tự hỏi nó như thế nào.
Bây giờ, trước khi chúng tôi nhấn chiếc nút trên bàn điều khiển
truyền tín hiệu truyền hình lên vệ tinh và đường cáp dẫn,
trước khi chúng tôi dừng lời giới thiệu dài dòng của khám phá vĩ đại ở vị trí thứ nhất,
Tôi chỉ muốn nói điều này có thể gây tranh cãi. Một số người sẽ cảm thấy tức giận.
Cho dù bạn cảm thấy như thế nào, xin nhớ rằng khám phá ở vị trí số 1
vô tình trông thấy nhiều điều ngạc nhiên trong tự nhiên và ông cố gắng giải thích chúng.
Nó không chỉ là câu chuyện về một chàng trai cố gắng tìm hiểu vấn đề.
Nó là câu chuyện về người đã có khám phá được bạn và tôi đánh giá là phát hiện vĩ đại số 1 trong lịch sử khoa học.
Sự chọn lọc tự nhiên
Sự chọn lọc tự nhiên.
Vào những năm 1820, phẫu thuật là một vấn đề khủng khiếp bởi không có thuốc gây mê.
Các sinh viên y khoa buộc phải quan sát và học tập.
Chàng thanh niên chạy ra khỏi phòng ngày ấy chính là Charles Darwin.
Ông cảm thấy phòng mổ là nơi quá sức đối với mình.
Bất chấp sự phải đối của cha, ông bỏ học trường y
để theo đuổi ước mơ trở thành một nhà tự nhiên học.
Darwin được lên làm việc trên chiếc tàu HMS Beagle của hải quân hoàng gia Anh,
và bắt đầu cuộc hành trình khảo sát vùng nước ven biển khắp thế giới.
Tàu Beagle lênh đênh trên biển suốt 5 năm, đối với Darwin, nó dường như vô tận.
Ông ở chung phòng cùng thuyền trưởng, người có một số bất đồng với ông, bao gồm cả câu chuyện của Đấng Tạo Hóa.
Darwin!
Trong khi thuyền trưởng giữ niềm tin với Đấng Tạo Hóa trong Kinh Thánh, Darwin lại cho rằng trái đất biến đổi dần dần suốt hàng triệu năm.
Đó là một đề tài tranh luân theo đuổi Darwin trong phần còn lại của cuộc đời.
- Chính phủ Anh tài trợ cho việc này sao? - Không, chính xác là cha của Darwin đã trả tiền cho chuyến đi của ông
đồng thời cũng trả tiền thuê phụ tá đi theo giúp đỡ Darwin mở mẫu vật và chuẩn bị thùng sọt cho lô hàng.
Ông làm việc tại chiếc bàn nhỏ tồi tàn, nơi ông để tất cả mẫu vật của mình,
tương tự như thế này.
Tàu Beagle ghé lại một vài cảng trên hành trình từ Australia đến Nam Mỹ,
neo đậu tại quần đảo Galapagos khoảng 36 ngày.
Và Darwin đã tận dụng tốt cơ hội đó.
Ông ghi chép lại những điều quan sát được về các loài thực vật bản địa và cuộc sống hoang dã.
Ông thu thập hàng ngàn mẫu vật phục vụ cho việc nghiên cứu.
Nhiều năm sau chuyến đi, Darwin vẫn tiếp tục ghi chép điều nhận thấy khi lênh đênh trên biển.
Vào năm 1837, một thời gian sau khi ông trở về từ đảo Galapagos,
ông đọc lại cuốn sổ đầu tiên và tự hỏi,
một câu hỏi đầy tham vọng đối với người đàn ông gần 30,
"quy luật cuộc sống là gì?".
- Đây có phải là trọng tâm của thuyết Darwin? - Đó chính là trọng tâm của thuyết Darwin,
cố gắng tìm ra hoạt động của thế giới tự nhiên, tương tự các quy luật mà những nhà lý hóa học phát hiện thấy trong ngành tự nhiên vô cơ.
Darwin tìm hiểu quy luật tự nhiên thông qua việc nghiên cứu các loài động vật trên quần đảo Galapagos.
Những sinh vật cùng loài nhưng khác biệt về thể chất đặc biệt thu hút ông.
Ví dụ, loài chim sẻ trên đảo Galapagos có nhiều hình dạng mỏ khác nhau.
Chúng thay đổi do môi trường sống.
Một số có chiếc mỏ cứng và cùn, phục vụ cho việc đập vỡ vỏ cua.
Số khác lại có mỏ thon nhọn hơn để săn mồi và nhét vào khe đá.
Sự khác biệt này thật khó hiểu.
Khi Darwin nghiên cứu nó,
ông bắt đầu nghĩ đến trận chiến để tồn tại là động lực của cuộc sống.
Khi một loài sinh trưởng mạnh mẽ, nó buộc phải tiến hóa hoặc diệt vong.
Chính cái nhìn tuy đơn giản nhưng sắc bén này đã tạo nên lịch sử.
Darwin khám phá ra cơ chế dẫn đến quá trình tiến hóa.
Chính là sự chọn lọc của tự nhiên.
Darwin không phải là người đầu tiên nảy ra ý tưởng này đúng không? Học thuyết của ông đặc biệt như thế nào?
Ông là người đầu tiên đưa ra cơ chế cụ thể, sự chọn lọc của tự nhiên.
Ông cũng là người đầu tiên phổ cập quan điểm quá trình này tiến hóa trong hàng triệu năm.
Ông cũng chính là người đầu tiên đại chúng hóa tư tưởng "cây giả phả",
có mối liên hệ đến tất cả vật thể sống.
Nhà di truyền học Dobzhansky từng nói: "Sinh học hoàn toàn vô nghĩa nếu không có sự tiến hóa".
Bởi vì ngành sinh học ngày nay là ngành sinh học tiến hóa. Và nó bắt đầu được chú trọng từ năm 1859.
Chúng ta xuất hiện như thế nào? Chúng ta là loài sinh vật gì?
Chúng ta có mối liên hệ như thế nào đến vạn vật trong tự nhiên?
Lý thuyết nói rằng tất cả chúng ta là một phần của "cây gia phả".
Dòng máu DNA liên kết chúng ta với mọi vật thể sống trên trái đất.
Đó không phải là phép nói ẩn dụ, hoàn toàn đúng như vậy.
Tại sao phải mất tới 20 năm để Darwin công bố quan điểm của mình?
Ông biết có thể nó sẽ gây ra làn sóng tôn giáo biểu tình.
Vợ của ông không hài lòng khi ông nói lên những điều đi ngược lại kinh thánh.
Bà viết cho ông một lá thư khi họ mới cưới, nói rằng "Em hy vọng nghiên cứu của anh sẽ không đẩy 2 ta ra xa mãi mãi".
Bà thật sự lo lắng về điều này.
Thêm nữa, ông cố gắng thu thập nhiều bằng chứng để mọi người không thể bác bỏ.
Cuối cùng, vào năm 1859, ông công bố học thuyết về sự chọn lọc tự nhiên của mình.
Tác phẩm "Nguồn gốc các loài" của ông được đánh giá là một trong những cuốn sách vĩ đại nhất.
Mọi người đều bàn tán về học thuyết tiến hóa đúng không?
Nhưng Darwin khẳng định, không bao giờ có chân lý tuyệt đối.
Darwin là nhà tư tưởng đầu tiên cố gắng truyền đạt đến chúng ta rằng khoa học chỉ là tạm thời, nó luôn thay đổi.
- Tạm thời nghĩa là sao? - Tức là nó chỉ chính xác trong một thời điểm nhất định.
Khi có thêm nhiều dữ liệu, nó không còn được chấp nhận theo cách đó nữa. Cần phải có một học thuyết mới.
Vậy, nó không phải là một chân lý vĩnh cửu. Nó mang tính chất tạm thời, luôn thay đổi.
Và ông không muốn tiến hóa bị xem như là một giáo điều tín ngưỡng.
Ông sẽ là người đầu tiên đứng lên nói: "Hãy bác bỏ nếu anh có thứ gì tốt hơn".
- Nhưng chúng ta không tìm thấy điều gì tốt hơn. - Vâng, chúng ta không tìm được thuyết nào tốt hơn.
Thực tế, những gì chúng ta tìm thấy là một ngành khoa học mới hoàn toàn
kèm theo các nghiên cứu về di truyền phân tử và DNA, củng cố quan điểm về sự tiến hóa.
Do đó, hiện nay, ở khắp mọi nơi đều in dấu khám phá của Darwin.
Và cuối cùng, đây chính là top 10 khám phá vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học.
và trước khi bạn tức giận bởi sự bình chọn của bạn không có trong đó, tôi muốn nói, tôi hiểu cảm giác này.
Nhìn vào danh sách, các bạn có thấy điện từ học không?
Tôi sẽ rất buồn bởi không có nó, tôi không thể xuất hiện trên truyền hình.
Và các bạn cũng đang làm một việc gì khác.
Vậy còn những khám phá quan trọng như mảng kiến tạo và vụ nổ Big *** thì sao?
Không có kiến tạo mảng, không có hiện tượng trái đất xô trượt, không có chúng ta.
Không có vụ nổ Big ***, không có vũ trụ như chúng ta biết.
Danh sách ngắn này cũng bỏ qua các phát hiện đó.
Nhưng trên tất cả, tôi bỏ mất câu chuyện này trong top 10.
Một phụ nữ đến gặp Michael Faraday sau bài giảng về điện từ của ông
và hỏi: "Ngài Faraday, cái này dùng để làm gì?".
Ông đáp lại: "Thưa bà, đứa trẻ sơ sinh có thể làm gì?".
Thật xuất sắc, một suy nghĩ tân tiến.
Những đứa trẻ mới ra đời chẳng làm được gì cả, chúng ồn ào và rắc rối.
Nhưng, bạn không bao giờ biết được, không bao giờ chắc chắn chúng sẽ trở thành gì.
Trẻ sơ sinh và điện từ chỉ là tiềm năng, và tôi để các bạn quyết định.
Tôi hy vọng các bạn có một chuyến hành trình tuyệt vời, tôi cũng được gặp gỡ nhiều người thú vị,
nhà nghiên cứu, nhà khoa học và cả những người từng đoạt giải thưởng Nobel.
Tất cả đều đam mê và tìm thấy niềm vui trong khoa học.
Mỗi khám phá này cũng như vô số quan điểm khác đã giúp làm giàu thêm nguồn tri thức về thế giới,
hầu hết đều được mô tả trong chương trình.
Hy vọng các bạn đưa ra thêm nhiều ý tưởng và chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục công việc tìm hiểu khám phá.
Xin tạm biệt.